Vấn đề nghiên cứu | Kết quả nghiên cứu | Tác giả và thời gian |
Khi màn hình tivi đang được bật lên: màn hình tivi sẽ thu hút sự chú ý của trẻ sơ sinh từ 6 đến 18 tháng tuổi hơn sự tương tác của chúng đối với cha mẹ. | Đối với trẻ sơ sinh và trẻ mẫu giáo, thời gian tiếp xúc với màn hình có tương quan tỉ lệ nghịch với thời gian tương tác với cha mẹ. Nghĩa là trẻ càng tiếp xúc với màn hình nhiều thì càng ít tương tác với cha mẹ qua các trò chơi để học các kỹ năng trong đó có kỹ năng ngôn ngữ. | Vandewater, Bickham, & Lee (2006) |
Mối liên hệ giữa việc sử dụng các phương tiện truyền thông và phát triển ngôn ngữ ở trẻ em dưới 2 tuổi. | Kết quả khảo sát hơn 1.000 cha mẹ của trẻ em dưới hai tuổi cho thấy rằng những trẻ em mới biết đi chập chững xem nhiều video thì nói được ít từ hơn. Đối với những trẻ từ 8 tháng tuổi đến 16 tháng tuổi, với gia tăng mỗi giờ video trong một ngày, trung bình sẽ làm giảm từ 6 đến 8 từ. | Zimmerman, Christakis, & Meltzoff (2007) |
Mối tương quan giữa xem tivi và chậm ngôn ngữ. | Những trẻ em bắt đầu xem tivi trước 12 tháng tuổi với thời gian > 2 giờ mỗi ngày có khả năng chậm ngôn ngữ gấp sáu lần so với trẻ phát triển bình thường (nhóm đối chiếu). | Chonchaiya & Pruksananonda (2008) |
Chất lượng tương tác giảm với thời lượng xem tivi cùng với trẻ so với việc đọc sách hay chơi cùng với trẻ. | Chất lượng tương tác giữa cha mẹ đối với con cái trong khi cùng xem tivi với con kém hơn thời gian khi họ nói chuyện trực tiếp với con hay đọc sách hoặc chơi với con. | Courage, Murphy, Goulding, Setliff (2010) Nathanson, & Rasmussen (2011) |
Hỏi đáp các vấn đề tâm lý trẻ em. | Yếu tố tác động (môi trường xung quanh) dẫn đến chậm phát triển ngôn ngữ ở trẻ em: Trẻ xem truyền hình quá nhiều, bố mẹ ít nói chuyện với con, khiến trẻ chỉ nhận thông tin một chiều, không có sự phản hồi trong một thời gian dài sẽ làm trẻ chậm nói. Thiếu tình thương của bố mẹ, trẻ bị ngược đãi. Bố mẹ phó mặc con cho người giữ trẻ không có thời gian trò chuyện với trẻ, trẻ không có cơ hội được nói. Trẻ bị tách ra khỏi môi trường xung quanh. Trẻ suy dinh dưỡng, sinh đôi, sinh ba (hơn 50% các cặp sinh đôi, sinh ba bị chậm nói). | Phạm Ngọc Thanh (2010) |
Liên hệ giữa sử dụng thời gian trên màn hình và phát triển ngôn ngữ ở trẻ mới biết đi ở Tây Ban Nha: Một nghiên cứu cắt ngang và dọc. | Những trẻ em xem tivi > 2 giờ mỗi ngày có tỷ lệ điểm giao tiếp thấp. | Duch, Elisa, & Ensari (2013) |
Tương quan giữa xem truyền hình và chậm ngôn ngữ ở trẻ em mới biết đi: Bằng chứng từ một cuộc khảo sát cắt ngang ở Hàn Quốc. | Kết quả phân tích hồi quy Regression cho thấy trẻ mới biết đi với thời lượng xem tivi: 2 giờ < thời gian xem tivi < 3 giờ, có khoảng 2,5 lần có nguy cơ chậm ngôn ngữ hơn. Những trẻ với thời lượng xem tivi > 3 giờ có khoảng 3 lần có nhiều rủi ro chậm ngôn ngữ hơn (p <0,05). | Byeon & Hong (2015) |
Ảnh hưởng của việc tiếp xúc với tivi đối với các kỹ năng phát triển ở trẻ nhỏ. | Trong số 75 trẻ em thường xuyên tiếp xúc với tivi, các em đã xem trung bình 67,4 phút/ ngày, thời điểm trước 2 tuổi. Điều này là quá mức theo tiêu chuẩn của Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ. Xem tivi làm tăng nguy cơ chậm phát triển nhận thức, ngôn ngữ và vận động ở trẻ. Sự chậm trễ về nhận thức, ngôn ngữ và vận động ở trẻ có liên quan đáng kể đến việc chúng dành bao nhiêu thời gian để xem tivi. | Ling-Yi et al. (2015) |
Tương quan giữa thời gian tiếp xúc với màn hình và chậm ngôn ngữ ở trẻ em. | Một nghiên cứu mới từ Bệnh viện dành cho Trẻ em bị bệnh ở Canada đã theo dõi gần 900 trẻ nhỏ từ 6 tháng tuổi đến 24 tháng tuổi. Kết quả cho thấy những trẻ chập chững tiếp xúc với màn hình cầm tay nhiều dẫn đến chậm trễ các kỹ năng ngôn ngữ biểu cảm. Kết quả cũng cho thấy rằng cứ sau 30 phút tăng cường thời gian tiếp xúc với màn hình cầm tay hằng ngày sẽ tăng 49% nguy cơ chậm trễ ngôn ngữ biểu cảm! | American Academy of Pediatrics (2017) |
Sử dụng thiết bị truyền thông di động có liên quan đến chậm ngôn ngữ biểu cảm ở trẻ 18 tháng tuổi. | Mẫu nghiên cứu bao gồm 893 trẻ em (tuổi trung bình 18,7 tháng). Hầu hết các bậc cha mẹ đã báo cáo con trẻ họ sử dụng 0 phút mỗi ngày thiết bị phương tiện di động (n = 693, 77,6%). Trong khi đó, những đứa trẻ có cha mẹ báo cáo bất kỳ việc sử dụng thiết bị phương tiện di động nào (n = 200, 22,4%), thời gian sử dụng phương tiện di động trung bình hằng ngày là 15,7 phút. Tỷ lệ chậm phát triển ngôn ngữ biểu cảm do phụ huynh báo cáo là 6,6% và tỷ lệ chậm trễ giao tiếp do phụ huynh báo cáo là 8,8%. Trẻ em sử dụng điện thoại di động, tăng 30 phút/1ngày tỉ lệ thuận với tăng tỷ lệ chậm ngôn ngữ biểu cảm (báo cáo của phụ huynh). Như thế kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ ý nghĩa giữa việc sử dụng thiết bị truyền thông di động và chậm ngôn ngữ biểu cảm ở trẻ 18 tháng tuổi. | Heuvel và cs. (2018) |