Hy sinh vì sứ vụ
Mục tử săn sóc đàn chiên
Phêrô Nguyễn văn Lựu sinh năm 1812 tại Gò vấp, Gia Định (Sài Gòn). Lớn lên cậu dâng mình cho Chúa, vào chủng viện và được gởi đi học ở Pénang, rồi được thụ phong linh mục. Cha được bổ nhiệm phụ trách nhiều giáo xứ như Mặc Bắc, Sa Đéc, Mỹ Tho. Cha thực thi nhiệm vụ một cách rất chu đáo, Cha chú tâm nhiều đến việc giảng dạy giáo lý, quan tâm đến từng gia đình trong sứ đạo, thường xuyên thăm viếng khuyên bảo họ. Các giáo hữu quý mến và sẵn sàng nghe theo lời của cha, ngay cả khi bị cha khiển trách lỗi lầm của họ. Cha Lựu chỉ mắc một tật nhỏ nhưng đã bỏ được. Vì gặp gỡ với dân đồng bằng Cửu Long, cha thường uống rượu với họ. Một hôm đang đi trên thuyền, cha mời linh mục Thuyết ở thuyền khác qua làm vài “xị”, nhưng vị này nhất mực từ chối: “Tôi không uống vì nhiều lý do, uống rượu vừa tốn kém, vừa mất tỉnh táo, lại chẳng phải là gương tốt cho tín hữu”. Ngay lúc đó cha Lựu đã ném ngay chai rượu xuống sông và nói: “Từ hôm nay tôi không uống rượu nữa”. Và cha đã trung thành giữ lời hứa đó.
Đầu năm 1853, cha Lựu thoát chết một cách may mắn. Khi đó, cha đang là cha sở họ Mặc Bắc và vừa được bổ nhiệm đến nơi khác thì quan trấn phủ Vĩnh Long, theo mật báo, đến vay bắt cha. Cha Philipphê Phan văn Minh và ông trùm Giuse Lựu bị bắt thế mạng.
Năm 1860, cha Phêrô Lựu đang phụ trách xứ Ba Giồng thì có lệnh quan trấn bắt tất cả các tín hữu có tên tuổi ở Xoài Mút và Ba Giồng (gần Mỹ Tho) đưa về giam tập trung ở tỉnh. Vì thương anh em bổn đạo cha thường cải trang vào thăm viếng, ủy lạo.
Các tín hữu coi cha như thiên thần Chúa gởi đến đem cho họ lương thực Thánh thể, ân sủng và bình an. Để thực hiện điều này, có lúc cha phải bỏ tiền mua chuộc lính canh và thận trọng lời nói với cấp trên của họ.
Gương sáng trong ngục tối
Tháng 12.1860, một hôm trong lúc đang gặp các tín hữu trong tù, vô tình cha để một lá thư chìa ra miệng túi áo. Viên quan thanh tra trại giam đi qua trông thấy liền ra lệnh bắt giam. Biết không thể giấu được nữa, cha liền nhận mình là linh mục. Thế là cha được chia sẽ đòn đánh, tra khảo, dọa nạt chung với các tín hữu của mình. Từ nay cha không chỉ an ủi, động viên anh em bằng lời nói suông nữa, mà bằng chính mẫu gương cuộc đời của mình: Bất chấp mọi đau đớn sỉ nhục, nhất quyết giữ vững niềm tin, chứ không bỏ đạo. Các quan bắt cha xuất giáo, cha trả lời: “Đạo đã thấm nhập vào trong xương tủy, tôi làm sao bỏ được. Vả lại một người giáo hữu thường, một thày giảng còn không có quyền bỏ đạo, huống nữa tôi đây là đạo trưởng”.
Nhận thấy mọi hình khổ đều vô ích, quan tỉnh Mỹ Tho liền lên án trảm quyết cha. Ngày 07.04.1861, quân lính dẫn vị chứng nhân đức tin ra khỏi cửa thành độ một cây số, rồi chém cha ngay bên vệ đường. Viên đao phủ vì mê tín, sợ người đã chết nhập vào mình, nên vừa chém xong liền quăng dao chạy trốn.
Thi hài vị tử đạo được các tín hữu thu lại đem về an táng chung với gông cùm và một chiếc bình đất vấy máu ngài. Về sau hài cốt của cha được dời đến đặt tại bàn thờ chính thánh đường Mỹ Tho. Năm 1960, hài cốt ngài lại được cải táng về nhà thờ chính tòa Sài gòn.
Ngày 02.05.1909, Đức Thánh Cha Piô X đã suy tôn cha Phêrô Nguyễn Văn Lựu lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.