Thánh Phêrô Nguyễn Văn Tự sinh năm 1796 tại làng Ninh Cường, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, nay thuộc Giáo phận Bùi Chu trong một gia đình ngoan đạo. Ngay từ nhỏ, ngài được cha mẹ cho vào nhà Chúa học tập và rèn luyện các nhân đức để sau này mong con mình trở thành linh mục đạo hạnh. Tính ngài rất thật thà, chăm chỉ học hành, cần mẫn trong bổn phận được trao phó. Nhờ vậy mà ngài được các bề trên lưu ý cách riêng. Bề trên rất ngạc nhiên thấy một cậu bé ngoan ngoãn, hiền lành lại trổi vượt các nhân đức hơn các bạn tu cùng lứa tuổi. Bề trên nhận định cậu Tự có thể là một linh mục tốt sau này, nên cho cậu học triết rồi thần học. Khi học xong chương trình triết và thần học thì bề trên gọi lên chịu chức linh mục. Năm 1826 thầy Phêrô Nguyễn Văn Tự thụ phong linh mục lúc 30 tuổi. Sau khi làm linh mục, ngài xin gia nhập dòng Đa Minh rồi tới ngày 4 tháng 1 năm 1827, ngài chính thức khấn ba lời khấn của dòng trong tay cha bề trên Amandi Chiêu. Là một linh mục dòng, cha hoàn toàn phục tùng quyền các đấng bề trên, bề trên trao phó cho bất cứ công việc gì, dù khó khăn, nặng nhọc thì ngài cũng cúi đầu vâng lời một cách rất khiêm tốn. Trong suốt 12 năm phục vụ dân Chúa trong thiên chức linh mục, ngài đã được từ anh em linh mục tới giáo dân nhìn nhận ngài như một tấm gương rất tốt lành về lòng đạo đức và nhiệt thành. Cuộc đời ngài nổi bật nhất là đời sống cầu nguyện. Ngài luôn kết hợp với Chúa và trên tay luôn có cỗ tràng hạt. Ngài rất yêu mến và năng quì cầu nguyện trước ảnh tượng Đức Mẹ. Khi dâng lễ thì ngài sốt sắng, trang nghiêm và tâm hồn như bay bổng lên trời, nhất là khi truyền Mình Máu Thánh, thì ngài trịnh trọng như thu hết tâm trí vào Bánh thánh và Chén thánh, lúc đó trông ngài siêu thoát lạ thường. Năm 1838, bề trên chỉ định ngài đi coi xứ Đức Trai cũng gọi là Kẻ Mốt, thuộc tỉnh Bắc Ninh, giữa lúc vua Minh Mạng ra sắc dụ cấm đạo khắt khe nhất. Vì thế khi về nhận xứ, ngài không dám làm việc công khai mà chỉ âm thầm lén lút làm việc mục vụ vào các buổi tối. Ngài không dám xuất hiện nên cứ phải lén lút nay nhà này mai nhà khác rất vất vả. May mắn là trong xứ có môt viên chức tốt lành, tên Quang, nhà ông này có vườn chuối và trầu khá lớn và rất rậm rạp, ông nghĩ có thể đón rước cha xứ tới trú ẩn tại đó. Một hôm ông lén tới gặp cha Tự, ông nói: - “Thưa Cha, tình thế khó khăn quá như thế này, con rất lo lắng cho tính mạng của cha. Cha cứ lưu động mãi như thế này thì sợ có ngày bại lộ. Vậy nếu cha đồng ý thì xin cha tới ẩn lánh tại vườn chuối và trầu của con, vườn vừa rộng lớn vừa rậm rạp khá kín đáo” Nghe ông Quang đề nghị, cha đồng ý ngay, rồi ngay tối hôm đó, cha tới trú trong vườn chuối nhà ông Quang. Mỗi buổi sáng ông Quang canh gác để cha dâng lễ ngay trong khu vườn. Ngày này qua ngày khác, cha Tự vẫn tiếp tục lo việc phục vụ Chúa qua bổn phận đã được trao phó. Cha rất sốt sắng chăm lo phần linh hồn cho giáo dân và tìm mọi cách để lo việc truyền giáo, mở mang nước Chúa. Nhưng tình thế bắt đạo mỗi ngày một gia tăng, quan quân đi xục xạo khắp nơi tìm bắt hết các đạo trưởng. Một hôm quan quân kéo nhau về bao vây làng Kẻ Mốt để bắt cha Tự. Khi biết tin, một vài anh em thanh niên đã nhanh chân đưa cha đi lánh tại nhà bà Thảo. Khi cha tới thì bà Thảo nói: - “Thưa cha, con mời cha vào. Con thà chết chẳng thà bỏ cha” Tại nhà bà Thảo, thầy Đa Minh Úy, 26 tuổi là người đi sát với cha trong việc tông đồ. Thầy đã đích thân lo tu bổ xây cất nơi trú ẩn này, thầy làm một lầu và một hầm. Thầy tính cha sẽ ở dưới hầm, còn thầy thì ở trên. Nếu lính có tới khám xét thì chỉ bắt được thầy, còn cha ở dưới hầm thì sẽ thoát nạn. Nhưng quân lính khám xét thấy áo lễ và chén lễ của cha mà không thấy cha, nên bọn lính bắt một số dân đánh đập tra khảo, trong số đó có ông lang Ninh, vì yếu đòn quá nên đã khai ra chỗ cha đang ẩn trốn. Ông lang Ninh đến nhà gặp ông Quang, bàn chuyện nộp cha. Nhưng cả hai ông lại sợ mang tiếng với dân làng nên bày kế là ngày mai sẽ cho người giả vờ đem cha đi trốn ở làng Hương bên cạnh, có chỗ kín đáo và bảo đảm hơn, rồi báo cho lính biết, chặn đường vây bắt cha luôn. Sáng hôm sau, đúng như kế hoạch, trên đường chạy trốn có cha Tự, thầy giảng Đa Minh Úy và một chú giúp lễ cùng đi tới nhà ông Loan thì bị quân lính vây bắt. Khi bắt được cha tại nhà ông Loan, bọn lính trói xiết cánh tay cha mạnh quá làm sai khớp xương rất đau đớn. Họ điệu cha tới công trường làng, có ông Loan là trưởng làng vì thấy tay cha đã sai khớp lại chảy máu nữa nên ông cởi trói cho cha và nói với cha: - “Cha à! Xin cha nộp sáu lạng bạc, bọn lính sẽ tha cho cha”. Cha bĩnh tĩnh trả lời: - “Trước kia tôi đã mất tiền cho khỏi bị bắt. Bây giờ Chúa đã thương cho tôi được tuyên xưng đạo Chúa. Xin các ông cứ nộp tôi cho các quan”. Bọn phản bội biết cha không bỏ tiền ra. Chúng lại trói cha và giải cha đem nộp cho các quan ở làng Sĩ An. Khi gặp cha, quan hỏi: - “Cha đã trốn ở đâu trong ba bốn ngày hôm nay?” Cha trả lời: - “Nếu không có ông Loan thì khi nào các ông mới bắt được tôi?” Quan nghe cha nói, hiểu chuyện và không nói gì thêm. Quan ra lệnh tất cả mọi người Công giáo phải bước qua Thánh Giá, người sau cùng là cha Nguyễn Văn Tự. Cha đứng nhìn con chiên lần lượt bước lên Thánh Giá mà lòng quặn đau. Cha tru lên khóc: “Xin Chúa và Đức Mẹ tha tội cho các con chiên của con” Nói xong ngài nghẹn ngào lau nước mắt, nhưng an ủi cha là cha thấy thầy Úy và một vài người nữa không bước qua Thánh Giá. Sau cùng quan truyền: - “Bây giờ đến lượt ông Nguyễn Văn Tự bước qua”. Cha Tự không nói gì, im lặng đi tới Thánh Giá, không bước qua mà lại ôm hôn kính Thánh Giá. Cha nói cách dõng dạc và lớn tiếng: - “Tôi là linh mục, không bao giờ tôi bước qua Thánh Giá, vì Thánh Giá là dấu Chúa chọn để cứu chuộc nhân loại. Quan tha thì tôi về, bằng không thì tôi sẵn lòng chịu chết. Sẽ không bao giờ tôi phạm đến Chúa tôi thờ”. Sau đó, quan cho giải cha về huyện Lương Tài, quan ngỏ ý đòi cha nộp tiền thì tha. Nhưng cha cương quyết không nộp, quan lại cho giải về tỉnh Ninh Thái, tức thị xã Bắc Ninh ngày nay. Về tới nhà tù Bắc Ninh cha gặp lại thầy giảng Đa Minh Bùi Văn Úy, hai cha con vui mừng được gần nhau để an ủi và khích lệ nhau. Cha Phêrô Nguyễn văn Tự hỏi thầy: - “Con có muốn được tha thì cha sẽ khai con chỉ là người nấu cơm cho cha thôi, vì sự thực cũng là như thế”. Thầy Bùi Văn Úy trả lời: - “Thưa cha! Cha đừng khai như vậy. Con ước ao được theo cha, nếu phải chết cho Chúa, con xin sẵn sàng”. (Thế là hai cha con được giam chung với nhau trong một thời gian cho tới khi cha Phêrô Tự được phúc tử đạo trước thầy giảng Đa Minh Bùi Văn Úy.) Sáng hôm sau, quan cho mời cha tới phòng riêng, tiếp cha rất lịch sự, cho cha ngồi chiếu tử tế rồi hoà nhã hỏi cha về các thừa sai và đạo trưởng trong giáo phận. Cha cũng vui vẻ và lịch sự không kém, trả lời quan về hai vị Giám mục và những linh mục đã bị bắt rồi. Quan nghe cha khai như thế thì tỏ ra hài lòng, rồi quan lại đưa các đồ thờ phượng tịch thu như áo lễ, chén lễ, và các đồ thờ yêu cầu cha cắt nghĩa. Cha lại được dịp cắt nghĩa và giảng đạo cho các quan nghe. Cha cũng bác bỏ những điều bịa đặt và cắt nghĩa xuyên tạc về các nghi thức phụng tự trong đạo Công giáo. Các quan nghe xong, tỏ ra thông cảm với cha. Một hôm ngồi trong tù, tình cờ cha thấy có một đống sách họ tịch thu của cha. Cha lấy một cuốn mở ra thì may mắn vô cùng, cha thấy ở ngay trang cuối có ghi tên một số người tín hữu, cha vội vàng tìm cách hủy ngay tên những người giáo dân này. Ở trong tù, lính canh gác cẩn mật lắm, rất khó có thể thực hiện ý định này được. Cha liền nghĩ ra kế xin họ cho cha chiếc chiếu, lấy cớ là chiếc chiếu cha nằm ẩm ướt hôi thối lại bị muỗi cắn quá. Khi được chiếc chiếu, cha giả bộ nằm ngủ cuộn người trong chiếc chiếu rồi từ từ nhai nát những trang giấy này, rồi nuốt hết. Thế là kế hoạch thành công. Cha vui mừng vì chỉ sợ những giáo dân này còn yếu kém đức tin mà bị bắt, thì họ sẽ bước qua Thánh Giá như bao tín hữu khác đã bị bắt, và họ đã xếp hàng đứng lần lượt bước qua Thánh Giá để bỏ đạo mà cha đã đau lòng chứng kiến hôm cha cùng bị bắt với họ. Trong tù, cha thường nói với thầy Đa Minh Úy, thầy Phaxicô Mậu và bốn giáo dân nữa là Giuse Cảnh, Tôma Đệ, Augustinô Mới và Stêphanô Vinh, sau này tất cả những người này đều được phúc tử đạo (ngày 19 tháng 12 năm 1839). Cha nói rằng: - “Ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt.10. 33) Các quan thấy không thể thuyết phuc được cha Phêrô Nguyễn Văn Tự, nên quyết định làm án cha Phêrô Nguyễn Văn Tự án trảm quyết (chém đầu) và ông trùm Giuse Hoàng Lương Cảnh án trảm quyết gửi về triều đình xin vua phê chuẩn, còn 5 người kia thì truyền đánh mỗi người 100 roi rồi phát lưu về Bình Định. Sau nhiều ngày các quan chờ đợi bản án gửi về, thì ngày 7 tháng 8 triều đình gửi bản án trả lại. Nhưng vua truyền lệnh tra hỏi lại cha Tự và những người này. Nếu những người này vui lòng bỏ đạo thì được ân xá, nếu bướng bỉnh ngoan cố chống lại lệnh vua thì chém đầu hai vị trên còn những người kia thì xử giảo tất cả. Hai ngày sau, các quan vâng lệnh vua lại cho lệnh dẫn cả bảy người ra tòa. Các quan ngọt ngào khuyên dụ bỏ đạo, khuyên không được các quan lại dọa nạt. Các quan hỏi cha Phêrô Tự: - “Này ông Tự, thực tình chúng tôi muốn tha ông. Vậy ông nghe chúng tôi bước lên Thánh Giá để được tha” Cha Phêrô Tự khiêm tốn trả lời: - “Tôi cám ơn các quan về những hứa hẹn này. Nhưng tôi không thể bỏ Thiên Chúa của tôi để theo vua và các quan. Tôi không thể dày đạp lên ảnh của cha mẹ tôi cũng như ảnh vua thì làm sao tôi có thể dày đạp lên ảnh Thiên Chúa của tôi? Tôi vui lòng chết vì Thiên Chúa của tôi”. Nghe những lời đầy tâm huyết nhưng rất khẳng khái của cha, các quan biết không làm gì hơn được nên cho lệnh đưa ngài về nhà ngục. Sau đó các quan cho biết là ngày 5 tháng 9 sẽ thi hành án lệnh của vua. Được tin, cha vui mừng nhờ một giáo dân mời cha Phương xứ Kẻ Roi vào thăm để giải tội cho ngài. Hai ngài gặp nhau cảm động, an ủi và khích lệ nhau và hẹn gặp nhau trên Thiên Đàng, rồi cha Phương phải vội vã đi ngay vì sợ lính gác phát giác cha Phương là đạo trưởng. Quan đầu tỉnh quyết định, sáng ngày 5 tháng 9 năm 1838, các quan giám sát và đội quân lý hình áp giải cha Phêrô Nguyễn Văn Tự và ông trùm Giuse Hoàng Lương Cảnh ra pháp trường đồi Xài Bông, Bắc Ninh để xử tử. Trên đường ra pháp trường, cha phủ kín mũ áo dòng trên đầu để âm thầm cầu nguyện. Nhiều người theo sau muốn nhìn mặt cha nên xin lính đến xin cha kéo mũ áo dòng xuống để nhìn được mặt ngài. Một người được nhìn thấy bộ mặt tươi vui quả cảm của cha đã nói: - “Nhìn khuôn mặt đầy nhân ái, trẻ trung và cương nghị của ngài. Tôi thương ngài quá! Chết uổng quá!” Một bà ngoại giáo thêm lời: - “Ông ta giơ cao Thánh Giá để quảng cáo đạo ông ta” Bà khác cướp lời: - “Không phải thế đâu. Ông ta chết vì cây Thánh Giá đó mà!” Chị Nga còn trẻ đi bên cạnh bà cụ già, thêm lời: - “Một người còn trẻ, đẹp trai, cao ráo như thế mà đem đi giết người ta. Mấy ông này ác thật”. Mấy tên lính đi bên cạnh quay lại dọa nạt: - “Liệu lời mà nói. Không chừng phải chém đầu hết bây giờ”. Nói chưa xong thì đoàn quân đã đi tới đồi Xài Bông nơi đã hành quyết nhiều người. Nhưng không hiểu vì lý do gì, quan giám sát lại ra lệnh dẫn cha về phía bên phải của đồi để xử cha tại đó. Cha quì cầu nguyện vài phút thì quân lý hình tới tháo gông và trói chặt cánh tay cha ra đàng sau.Trong khi trói cha thì có một người tín hữu rất quí mến cha tên là Hải Thạc - sau cũng được phúc tử đạo tới xin đặt một miếng gối lớn xin cho cha quì trên gối để khi bị chém thì máu sẽ đổ trên gối. Cha có một thân hình to con và cao ráo nên khi quì, cũng vẫn còn cao nên cha phải cúi đầu thấp xuống để cho lý hình chém dễ dàng hơn. Khi đã chuẩn bị xong, quan giám sát nói lớn: - “Hãy dùng một nhát gươm mà chém đầu ông ta, rồi tung đầu lên cao cho mọi người thấy” Quan nói xong thì ba hồi chiêng trống nổi lên, bầu trời bỗng tối sầm lại, sấm sét nổ rợn rùng. Tiếng chiêng cuối cùng, một tên lý hình vung cao gươm chém một nhát không đứt cổ, anh phải chém nhát thứ hai cổ mới đứt rồi lý hình tung đầu ngài lên cao. Nhiều người chứng kiến la lối ầm ĩ. Có tiếng kêu la: - “Giêsu Maria! Xin đón nhận thầy cả Phêrô vào Thiên Đàng”. Một sự lạ xảy tới là khi đầu ngài vừa rơi xuống đất thì một đàn chim đông vô kể từ đâu bỗng bay tới vây quanh xác ngài. Một ông già đã lấy tấm khăn thấm máu ngài thì thật lạ lùng, ông thấy ba tấm hình nổi trên chiếc khăn của ông. Một hình cha thánh Phêrô Nguyễn Văn Tự, một hình người lý hình đang vung gươm chém đầu ngài và một hình pháp trường nơi xử trảm ngài. Một chuyện lạ khác là có một em bé bị bệnh đau bao tử nhiều năm, uống nước hoà chút máu của ngài, em đó khỏi bệnh ngay. Người ta còn ghi lại rằng cậu Tham, con quan Tuần giữ một miếng vải áo dòng của Cha, nhiều người xin chuộc lại. Nhưng cậu nói: - “Từ khi tôi mang miếng vải này ma quỉ không dám quấy phá, cám dỗ tôi nữa, nên tôi không bán lại cho ai đâu”. Một chuyện lạ khác, có một tên lính bị quỷ nhập, hành hạ anh ta khổ lắm. Người ta lấy nước thánh rẩy trên anh, nhưng anh ta chỉ cười. Ông Loan nhớ là chiếc gươm chém đầu cha thánh Tự, ông còn giữ. Ông Loan lấy chiếc gươm đó áp vào cổ anh bị quỷ ám, tức thì anh ta khỏi và nói được như bình thường. Ngay từ khi bị chém, cha thánh Tự đã làm nhiều phép lạ. Nhiều người gặp những sự khó khăn hay bệnh nạn, cầu xin với cha thánh Phêrô Tự đều được Chúa cho như ý. Sau khi xử, quan ra lệnh phải chôn ngay tại đó, nhưng sau giáo hữu bỏ tiền mua chuộc để rước thi hài ngài về an táng tại họ Nghĩa Vũ, huyện Yên Dũng, thuộc tỉnh Bắc Ninh. Đức Giáo Hoàng Lê-ô XIII đã suy tôn ngài lên bậc Chân phước ngày 27 tháng 5 năm 1900 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng ngài lên hàng Hiển thánh tử đạo ngày 19 tháng 6 năm 1988. Lm. Nguyễn Ðức Việt Châu, SSS
tonggiaophanhanoi.org