Thánh Hierônimô Hermosilla có tên Việt Nam là Vọng, khi được vinh thăng Giám mục thì đổi là Liêm sinh ngày 30 tháng 12 năm 1800 tại Santo Domingo de la Calzada, nước Tây Ban Nha, con của cụ ông Augutinô và cụ bà Catarina Hermôsilla, gia đình tuy nghèo về vật chất nhưng lại rất giầu có về lòng đạo đức và tình bác ái.
Ngay từ nhỏ cậu Hermôsilla đã được theo học với các cha dòng Biển Đức và đã ước mong được vào dòng Biển Đức từ lúc 15 tuổi. Nhưng khổ nỗi là vào thời điểm ấy nước Tây Ban Nha đang chịu sự thống trị của vua Napôlêon I, vua ra lệnh các dòng khổ tu không được phép nhận thêm người. Do đó cậu Hermosilla được giới thiệu qua học tại chủng viện giáo phận Valencia do các cha dòng Đa Minh điều khiển. Duyên kỳ ngộ này Chúa đã xếp đặt để đưa Hermôsilla tới dòng Đa Minh và Hermôsilla đã nhận áo Dòng Đa Minh lúc 19 tuổi. Thời đó, đầu thế kỷ 19 tại Tây Ban Nha đang là thời kỳ Cách Mạng, một đảng nổi lên lật đổ chính quyền nhà vua và bắt bở Giáo Hội. Nhiều tu viện, thánh đường bị tàn phá, bị đóng cửa và giải tán. Tu viện dòng Đa Minh tại Valenza cũng chung một số phận. Nhà dòng bị giải tán, Hermôsilla trở về với gia đình rồi theo lệnh nhập ngũ. Hoàn cảnh đưa đẩy này làm cho Hermôsilla rất hoang mang và đau buồn khổ sở. Tới đầu năm 1823 vua Tây Ban Nha đã khôi phục lại quyền bính, Giáo Hội trở lại cảnh bình an. Các Dòng tu lại đua nhau mở lại sinh hoạt vui vẻ. Hermôsilla vui mừng trở về Valenza rồi xin trở lại tu viện Đa Minh và ngày 29 tháng 10 năm 1823 thầy Hermôsilla được tuyên khấn vĩnh thệ và lãnh chức Phó Tế. Vì lòng khát khao được đi truyền giáo tại Viễn Đông nên mặc dầu chưa lãnh chức linh mục thì thầy Hermôsilla đã làm đơn ghi danh vào số những người tình nguyện đi truyền giáo tại Viễn Đông. Sau hai năm, Bề trên chọn thầy Hermôsilla cùng với 11 tu sĩ khác khởi hành từ hải cảng Cadiz để đi Manila. Tất cả 12 chiến sĩ trẻ trung đầy nhiệt huyết hăng hái lên đường theo tiếng Chúa gọi như thánh Phaolô xưa trước cửa biển Macedonia: Xin Ngài sang đây cứu vớt chúng tôi (TĐCV. 16,9). Sau hơn năm tháng trời lênh đênh trên biển cả, con tàu chở đoàn chiến sĩ của Chúa tới Manila bằng an. Sau ít tháng thầy Hermôsilla lãnh chức linh mục tại Manila, thủ đô của Phi Luật Tân rồi làm việc mục vụ tại đây. Ngày 23 tháng 10 năm 1828, cha Hermôsilla vui mừng nhận được lệnh của bề trên lên đương đi truyền giáo tại Viễn Đông. Ước nguyện của cha từ lúc 15 tuổi nay đã thành, cha mau mắn xuống tàu qua ngã Macao để tới Việt Nam Cùng đi với cha còn có ba nhà truyền giáo thuộc Hội Thừa Sai Paris nữa. Ngày 15 tháng 5 năm 1829 các ngài tới Thái Bình. Sau đó cha Hermôsilla tới Trung Linh thuộc giáo phận Bùi Chu. Ngày này Hai năm sau là những năm 1830-1832 đạo Chúa bị bách hại khủng khiếp, giáo dân lại quá đông đảo mà chỉ còn ba vị Tông Đồ của Chúa là Đức Cha Delgado Y, Đức Cha Hernares Minh, cha Tổng Quản Fernandez Hiền. Tất cả ba vị đều đã cao niên và chuyên môn sống trong hầm hố, hết nơi này tới khác để tránh bị nhòm ngó, rình bắt ngày đêm. Do đó chỉ còn cha Hermôsilla trẻ trung nên các Đức Cha đặt rất nhiều hy vọng nơi vị Tông Đồ trẻ trung đầy nhiệt huyết này, Đức cha Hernares đặt tên Viêt Nam cho cha Hermôsilla là Vọng, ngụ ý là niềm hy vọng của các ngài tại Việt Nam trong giai đoạn này, các ngài làm việc mục vụ thật vô cùng cực nhọc vì phải lén lút, ẩn trốn ngày đêm vì vua Minh Mạng ra sắc lệnh cấm đạo rất nghiêm khắc. Tại tỉnh Nam Định, tổng đốc Trịnh Quang Khanh sau khi đã bị triệu về kinh nghe khiến trách vì đã lơ là trong việc bắt đạo nên khi trở về, ông đã ra công ra sức tìm mọi cách thi hành lệnh cấm đạo của vua. Ông đích thân đi truy nã, bắt bớ các tín hữu và các đạo trưởng trong toàn tỉnh. Chỉ trong vòng sau hai tháng, Đức Cha Delgado Y, Đức Cha Hernares Minh, cha Tổng Quản Fernandez Hiền đều bị bắt, chỉ còn lại người chiến sĩ trẻ trung là cha Hermôsilla Vọng còn đang ẩn trốn. Nhờ sức khoẻ và sự lanh lợi nên cha Hermôsilla lẩn trốn rất giỏi, lúc biến lúc hiện, tùy ở tin tức giáo dân liên lạc về, để rồi cao chạy xa bay hay nằm lì ở một xó hầm nào chờ cho tới thời cơ thuận lợi. Có lần ngài giả vờ nằm chết trong một quan tài để người ta khiêng qua trạm gác. Lần khác nhờ trời mưa như thác lũ, ngài che râu, đội nón lá, đi chân không, thắt lưng xắn quần lên cao, lấy bùn trát vào chân tay mặt mũi, và cứ thản nhiên đóng vai người hầu bám đuôi con ngựa chạy theo một ông Chánh Tổng Việt Nam đang bệ vệ ngồi trên lưng ngựa hồng. Nhờ mưu kế này mà cha đi từ Trung Linh tới Phúc Nhạc Phát Diệm bằng an. Ngày 25 tháng 4 năm 1841 Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI vinh thăng cha làm Giám mục và được Đức Cha Retord Liêu tấn phong. Cả hai vị Giám mục này đã được Toà Thánh chỉ định để thay thế các Đức Giám mục tiền nhiệm đã bị bắt vì Đạo Chúa. Sau khi nhận chức Giám mục, Đức cha Hermôsilla Vọng đổi tên là Liêm (có khi cũng gọi là Tuấn để tránh sự theo dõi của vua quan), Đức cha xin Toà Thánh tấn phong Giám mục cho cha Romuala Jimeno Lâm làm Giám mục Phó. Về sau Đức Cha Romuala Jimeno Lâm được thuyên chuyển về làm Giám mục tại Manila. Trong thời gian bảy năm dưới triều vua Thiệu Trị tình thế bắt đạo tạm thời lắng dịu, nhờ thế mà Đức Cha Hermôsilla Liêm cho tu sửa các nhà thờ bị tàn phá, mở lại các trường dạy giáo lý, tổ chức các tuần đại phúc cho các đoàn thể, xứ đạo, tìm lại những con chiên vì yếu đuối đã lâu ngày bỏ đạo, phát động chiến dịch lần hạt kinh Mân Côi, lập lại các Chủng viện, khôi phục lại các nhà dòng, lo đào tạo các linh mục và chính ngài đã truyền chức linh mục cho 7 tân linh mục. Công việc đáng ghi nhớ nhất của Ngài là năm 1848 Ngài đã xin Đức Giáo Hoàng Piô IX đã chia giáo phận Đông Đàng Ngoài thành hai giáo phận Bùi Chu (Trung Đàng Ngoài) và Hải Phòng (Đông Đàng Ngoài). Từ đây mỗi giáo phận tự tổ chức lấy công việc truyền giáo và mục vụ theo những nhu cầu đòi hỏi của mỗi giáo phận. Từ năm 1851 tới 1860 vua Tự Đức đã ra 5 sắc chỉ bắt đạo và mỗi sắc chỉ lại càng thêm gay gắt khốc liệt thêm. Vua tăng tiền thưởng từ 100 tới 300 lạng bạc cho những ai chỉ điểm bắt được các đạo trưởng. Đức Cha Hermôsilla Liêm phải ba lần đổi tên (Vọng, Liêm, Tuấn), đi đâu cũng phải lén lút, tàng hình, bôi mặt lem luốc và trú ẩn trong các hang hầm ẩm thấp. Di chuyển từ Đông Xuyên tới Kẻ Né, Đông Bài, Trại Mới, tức xứ Đông Xá v.v. đến chủng viện Kẻ Mốt tỉnh Hải Dương thật là khó khăn, vượt thoát trăm ngàn nguy hiểm. Dù khó khăn trước nhiều thách đố, Đức Cha vẫn kiên trì tìm mọi cách để lui tới những địa điểm này lo việc giảng dạy cứu giúp các linh hồn. Sắc chỉ độc ác nhất của vua Tự Đức năm 1860 là sắc lệnh Phân Sáp. Chiếu theo đó, hết mọi người theo đạo Thiên Chúa, bất cứ nam nữ, giầu nghèo, già trẻ đều bị phân tán vào các làng lương dân. Nhận được sắc lệnh này, từ linh mục tới giáo dân đều bàng hoàng sợ hãi. Chính Đức Cha Hermôsilla Liêm cũng bàng hoàng run sợ và hình như Ngài đã linh cảm được số phận tương lai của mình. Vì sắc lệnh gay gắt khốc liệt này cho nên ngay cả các hầm trú ẩn cũng bị phát giác. Các linh mục bị bắt khắp nơi, Đức cha Hermôsilla Liêm cũng không còn nơi trú ẩn! Trước đây cả làng Nam Am số người lương rất đông. Họ đối xử rất tốt với người Công giáo, họ sẵn sàng đón nhận giáo dân, linh mục và ngay cả các linh mục ngoại quốc tới ở trong gia đình của họ, nay vì sắc lệnh Phân Sáp độc ác này nơi đây cũng đã trở nên khó khăn đầy nguy hiểm! Khi ấy thầy giảng Giuse Nguyễn Duy Khang cũng đang ấn lánh tại đây bàn cho Đức Cha về lại Hải Dương. Nơi đây trong một thời gian ngắn ngài gặp lại Đức Cha Berrio Ochoa Vinh và cha Amato Bình, cả hai vị cùng là dòng Đa Minh cũng đang ẩn lánh mong thoát cuộc bách hại. Ban ngày mỗi người đi một nơi, giả làm nghề chài lưới, đánh tôm cá, tìm cách gặp gỡ giáo dân để khuyên bảo và ban các bí tích cho họ, ban đêm trở về tập họp dâng lễ cầu nguyện chung với nhau.. Đức cha Hermôsilla Liêm và thầy giảng Giuse Nguyễn Duy Khang ẩn trú trong nhà ông trưởng Bính được một thời gian rất an toàn. Nhưng rồi một hôm, cha con ông trưởng Bính không hiểu có chuyện gì bất bình, cãi nhau lớn tiếng. Người con trai tức với bố liền đi tố cáo trong nhà có đạo trưởng ẩn trú. Thế là ông Đội Bằng đang làm Chánh Tổng đem quân tới bao vây bắt luôn Đức Cha và thầy giảng. Đức Cha thì họ nhốt trong cũi còn thầy giảng Giuse Nguyễn Duy Khang thì bắt đeo gông và xiềng xích điệu về tỉnh Hải Dương, hôm đó là ngày 21 tháng 10 năm 1861. Về tới Hải Dương, quan tổng đốc tỉnh mở cuộc thẩm vấn Đức Cha một cách khá tỉ mỉ Quan hỏi: - Tới Việt Nam, ông đã đi qua những nơi nào: Đức Cha trả lời: - Tôi nay ở chỗ này mai ở chỗ khác, không có nơi nào nhất định - Ông có biết đức Vua đã ra lệnh cấm Tây Phương đạo trưởng không được phép giảng đạo Gia Tô không? - Tôi biết - Thế tại sao ông không tuân lệnh vua? - Tôi chỉ có bổn phận vâng lệnh vua khi lệnh ấy không ngược lại với giáo lý đạo Thiên Chúa mà thôi. - Ông đem tà đạo vào mê hoặc dân chúng. Theo sắc chỉ đức vua thì ông sẽ bị án tử, ông biết không? - Đạo Thiên Chúa là đạo chân chính. Đạo dạy con người biết tôn thờ vị Thượng Đế là Đấng tạo thành trời đất và yêu thương nhân loại, để khi chết được lên Thiên Đàng hưởng phúc trường sinh. Như vậy, tại sao quan lại nói là tà đạo? Xin quan lớn giải thích cho tô biết. Quan tổng đốc không biết giải thích ra sao nên lờ đi. Đức Cha Hermôsilla Liêm lập luận đơn sơ nhưng vững lý. Quan cho rằng khó mà thuyết phục được ông này cho nên cứ nhốt Ngài trong cũi. Đức Cha thì to con mà chiếc cũi thì thấp và nhỏ cho nên Đức Cha cứ phải khòm lưng suốt ngày, co ro trong chiếc cũi, mặc cho xương cốt co rút đau đớn, chân tay rã rời, mệt mỏi. Suốt bốn ngày liền, Đức Cha ngồi trong cũi chứng kiến người ta bắt, điệu Đức Cha Valentino Berrio Ochoa Vinh và cha Amato Bình, cả hai cũng bị nhốt trong cũi đưa về giam cùng một chỗ với Đức Cha Hermôsilla Liêm. Thật là ý Chúa tốt lành đã xui khiến cho ba vị tông đồ truyền giáo cùng quê hương gặp nhau, tâm sự với nhau, khuyến khích nhau trong những giờ phút bị giam cầm, tù đày trước giờ tử đạo. Ngày 1 tháng 11 năm 1861, quan tổng đốc tỉnh Hải Dương cho thi hành án lệnh trảm quyết cả ba chiến sĩ Đức Tin tại pháp trường Năm Mẫu, ngoài thành tỉnh lị Hải Dương. Dân chúng theo dõi tin tức biết được ngày các Đấng bị xử. Ngay từ sáng sớm dân chúng đã lũ lượt tuốn ra chờ đợi hai bên đường đông như họp chợ. Theo lệnh tổng đốc, các quan đã lệnh cho hai tiểu đoàn quân đội chừng 500 binh sĩ xếp thành hai hàng nghiêm chỉnh. Đi đầu là ba con voi, quan giám sát đi giữa, có hai người che lọng hai bên. Tiếp theo sau là ba tù nhân của Nhà Nước, trong đó có cả người con ông Đội Bái đã được Đức Cha Hermôsilla Liêm dạy giáo lý và rửa tội trong tù mấy ngày hôm trước. Theo sau là ba chiếc cũi nhốt cha Amato Bình, Đức Cha Valentino Berrio Ochoa Vinh và Đức Cha Hermôsilla Liêm. Cả ba vị đầu bị nhốt trong cũi nhưng các ngài tươi cười bình thản. Hai Đức Cha thì luôn luôn giơ tay làm phép lành cho giáo dân. Dân chúng theo sau ồn ào, kẻ khóc người thương. Nhiều kẻ trách móc quan quân dã tâm giết chết những người hiền lành thánh thiện này. Tới nơi, người ta đã giải sẵn 6 mảnh chiếu, bên trên ba mảnh còn trải thêm ba miếng thảm thẳng hàng dành cho ba vị tông đồ Thừa Sai. Quan giám sát ra lệnh mở cũi để ba vị bước ra ngoài. Các ngài quay chào mọi người rồi quì gối cầu nguyện một lúc Đức Cha Hermôsilla Liêm xin quan giám sát cho xử người con ông Đội Bái trước, vì ngài muốn đích thân trông thấy anh bền đỗ chết lành. Sau đó ba vị bị trói chặt vào cột, để rồi nghe đọc bản án. Một viên chức bước ra đứng giữa đọc lớn tiếng: “Tây phương đạo trưởng trá hình giảng đạo, vì thế mà bị xử tử vì đạo Gia Tô đã bị vua cấm”. Tiếp theo, viên chức đó lại cầm loa lên giọng lớn tiếng: “Trong toàn dân ai tỏ lòng thương tiếc hoặc đên thấm máu ba Tây Phương đạo trưởng này sẽ bị bắt ngay tại chỗ và giải nộp về tỉnh cho quan tổng đốc”. Sau cùng, chiêng trống nổi lên từng hồi. Mọi người hồi hộp nín thở. Các tên đao phủ đứng sẵn bên ba vị chiến sĩ của Chúa, tay cầm gươm bén nhọn, giơ cao đợi tiếng chiếng trống cuối cùng thì vung chém một nhát. Ba chiếc đầu rơi xuống trong vũng máu đỏ tươi chảy lai láng. Vì đã có lệnh cấm nên mọi người cả lương lẫn giáo chờ đợi cho quan quân rút hết thì mới dám kéo tới thấm máu các ngài. Một vị quan trong nhóm đã sai một tên đầy tớ tới thấm máu các vị Tử Đạo đưa về làm thuốc chữa các thứ bệnh trong gia đình. Ba thi hài được bọc trong ba chiếc khăn và chôn tại chỗ. Thủ cấp các ngài được treo ở bến đò Hàn ba ngày, nhưng giáo dân đánh tráo bỏ vào đó ba củ chuối rồi đưa về Yên Dật, sau lại đưa về an táng tại Thọ Ninh một thời gian, cuối cùng di chuyển về đặt tại Đền các Thánh Tử Đạo Hải Dương. Đức thanh cha Piô X suy tôn Đức Cha Hierônimô Hermôsilla Liêm lên bậc Chân Phước ngày tháng 5 năm 1906. Đức Cha đã nằm xuống nhưng chân lý ngài đã rao truyền, phong thái và nhiệt tâm của Ngài vẫn sống mãi triển nở trong lòng giáo dân và hàng giáo sĩ của giáo phận. Tinh thần đó mãi mãi là dấu chỉ chói sáng cho mọi người Kitô hữu tiếp tục sống vững mạnh làm chứng cho Chúa Kitô. Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo Việt Nam. Lm. Nguyễn Đức Việt Châu, SSS
tonggiaophanhanoi.org