Thánh Phêrô Dumoulin Borie Cao chào đời ngày 20 tháng 2 năm 1808 tại làng Beynat miền Correze, nước Pháp. Thân phụ là ông Guillaume Borie, thân mẫu là bà Rose Borie.
Gia đình nghèo, cha làm nghề xay lúa, mẹ coi sóc cộng việc nội trợ trong nhà. Cậu Borie có nguời chú làm linh mục coi xứ Beynat, nhờ vậy cậu vào ở với cha chú, được cha chú săn sóc cho ăn học đàng hoàng. Cho tới hết chương trình trung học thì cha chú gửi vào chủng viện Servières theo học môn hùng biện và triết học Khi ấy cậu Phêrô Dumoulin Borie đã 18 tuổi rồi sau đó lên đại chủng viện ở Tulle. Trong thời gian học thần học, thầy quyết định đi truyền giáo để giúp đỡ những người nghèo khổ. Thầy bắt đầu tập chịu khổ cực trong cách ăn mặc cũng như tiêu pha. Thầy sốt sắng cầu nguyện và thích yên lặng một mình nơi thanh vắng. Bước sang năm thứ ba tại đại chủng viện thì thầy chịu tang cha rồi từ giã mẹ để vào chủng viện Hội Thừa Sai Paris. Lúc đi, thầy phải lén trốn mà đi vì biết rằng bà mẹ sẽ đau khổ nhìn con ra đi. Trước lòng quả cảm và cương quyết cùng lòng đạo đức sâu xa của Thầy, Bề trên đã xin Tòa Thánh chuẩn cho thầy được thụ phong linh mục sớm vì chưa đủ tuổi nhưng đã học xong thần học. Ngày 21 tháng 11 năm 1830 thầy thụ phong linh mục tại Bayeux. Ngay sau khi thụ phong linh mục, cha được lệnh bề trên đi truyền giáo tại Viễn Đông. Cha vui mừng và ngày 1 tháng 12 cha xuống tầu vượt biển tới ngày 15 tháng 7 năm 1831 tầu mới cập bến Macao. Rồi từ Macao cha tiếp tục tìm đường đi Việt Nam. Ngày 15 tháng 5 năm 1832 cha tới Bắc Việt nhận tên Việt Nam là Borie Cao, giữa lúc vua Minh Mạng đang tìm cách cấm đạo. Sau bốn tháng học tiếng Việt, cha đã có thể giảng và giải tội được thì bề trên lại sai cha đến coi xứ Nghệ An. Nhờ tính tình vui vẻ lại biết sống hoà đồng với mọi người nên cha được nhiều người quí mến và trọng nể. Cha Masson làm chứng rằng: “Dù không hợp với đồ ăn Việt Nam, cha Borie Cao vẫn ăn cách ngon lành làm như đã sinh ra ở Việt Nam vậy. Cha lại rất bình dị hoà đồng với mọi người, đôi khi còn biết nói đùa với họ nữa”. Năm 1833 khi có lệnh bắt đạo các linh mục Thừa Sai phải tản mát tìm nơi trú ẩn. Cha Phêrô Borie Cao lúc ấy đang coi xứ Bình Chính, Bố Chánh, tỉnh Quảng Trị nơi có tới 20 ngàn giáo dân. Để làm mục vụ cha cũng phải di chuyển liên tiếp tới 17 lần. Năm 1835, cha có ý định táo bạo là sẽ về kinh đô để biện hộ đạo trước mặt vua. Nhưng các Thừa Sai khác can ngăn vì biết rằng vua Minh Mạng đã quá biết về đạo rồi.Tuy thế, cha vẫn phải làm mục vụ một cách lén lút trong vùng Quảng Trị. Năm 1838 cha Candalh Kim bị tố cáo là mở chủng viện ở Di Loan, vua Minh Mạng ra lệnh truy lùng bắt tất cả các đạo trưởng, kể cả vùng Bố Chánh, thủ phủ của Nghệ An. Trong dịp này cha Phêrô Vũ Đăng Khoa, cha Vinh Sơn Nguyễn Thế Điểm đã bị tố cáo và đã bị bắt cùng với những người giúp việc hai cha. Một trong những người giúp việc này vì bị đánh đau quá phải khai chỗ ở của cha Borie Cao ở xóm Trà, xứ Mỹ Hảo nên quan quân đổ xô về lùng bắt rất dữ tợn. Trước tình thế nguy ngập cha Borie Cao không thể ở nhà nào được đến vài giờ, cha luôn luôn phải di chuyển. Nhiều tín hữu muốn cho cha trú ẩn trong nhà nhưng lại sợ những người khác bị đánh đập tra khảo thì lại tố cáo. Cuối cùng ngày 31 tháng anh Tham là một giáo dân tốt đưa cha xuống thuyền nhỏ chèo ra khơi, chờ đợi cuộc lùng bắt lắng dịu thì trở vào. Nhưng rồi trời bỗng trở gió, giông tố kéo lên, dồn thuyền của cha táp vào bờ. Cha nghĩ rằng đây là dấu Chúa muốn cha ở lại, cha bỏ thuyền lên đất liền vào ẩn núp dưới một hố sâu có cây cối che phủ khá kín đáo. Thế rồi vào lúc trời tối, một em bé gái 16 tuổi bị bắt và bị tra khảo, dù biết chỗ cha trú ẩn nhưng em nhất định không nói, em bị bọn lính đánh đau quá. Ông bố thấy con mình bị đánh tàn nhẫn quá thì xúc động thương con, ông đã chỉ chỗ gần nơi cha trú ẩn. Giữa đêm khuya, cha Borie Cao nghe rõ bọn lính đang tiến lại gần chổ mình thì cha ra khỏi hầm, lớn tiếng hỏi: - Các anh đi tìm ai? Toán linh bỡ ngỡ thấy một bóng đen to lớn từ dưới đất chui lên, họ tưởng là ma nên không dám tiến lại gần. Một lát sau họ nhìn thấy rõ hơn, họ yêu cầu cha ngồi xuống. Cha bĩnh tĩnh ngồi xuống đất và họ xông tới đè cha xuống và trói rồi thi nhau đánh cha như để trả thù.Trên đường dẫn cha về thì thầy giảng Phêrô Nguyễn Văn Tự chạy lại tự xưng là đệ tử của cha. Cha do dự định không nhận nhưng thầy Tự năn nỉ: - Xin cha cho con theo cha đến cùng. Cha Borie Cao nghe thầy nói thế thì xúc động, ngài tháo chiếc khăn quàng, xé một mảnh trao cho thầy và nói: - Con cầm lấy. Hãy giữ nó làm bằng chứng cho lời con đã hứa. Thầy Tự giữ mãi miếng vải ấy trong suốt thời gian trong tù và cuối cùng Thầy cũng đã theo chân thầy mình là cha Borie Cao để được phúc tử đạo ngày 1 tháng 7 năm 1840. Bị giải về giam tại nhà tù Đồng Hới, cha vui mừng gặp được hai cha Việt Nam là cha Vinh Sơn Điểm đã cao tuổi và cha Phêrô Vũ Văn Khoa. Các cha gặp nhau thật vui vì sẽ được an ủi, khích lệ nhau. Hai cha Việt Nam thì cảm thấy an tâm hơn khi có cha Borie Cao trẻ lại lanh lẹ, khi phải ra toà quan có tra vấn điều gì thì đã có cha Borie Cao trả lời thay rồi. Sau ít ngày, các quan gọi các cha ra công đường để tra vấn. Cuộc tra vấn lần này có cả quan Bố Chánh Nguyễn Đăng Uẩn, quan giám sát Phan Trữ tham dự. Quan tỉnh Đồng Hới hỏi: - Đạo trưởng Cao và đạo trưởng Điềm, các ông biết là đã có lệnh vua cấm đạo Gia Tô mà các ông còn rao giảng. Tuy vậy, nếu bây giờ các ông bước lên Thánh Giá thi chúng tôi sẽ tha cho các ông về tự do. Cha Borie Cao khẳng khái trả lời: - Không thể được. Một trăm ngàn lần cũng không thể được. Quan lại nói: - Đạo trưởng Cao, Ông là người Âu châu đến xứ này truyền đạo. Sao ông không tìm cách hồi hương. Ở đây cứ phải trốn tránh liên miên rồi bị bắt và chịu đánh đập khở sở làm chi. Vậy trước khi bị bắt ông ở đâu? Nói để tôi tìm cách giúp ông. Cha trả lời: - Tôi mới tới truyền đạo ở đây. Vua cấm đạo vua cấm cả tầu bè nước ngoài đi lại. Tôi có muốn về thì cũng không có cách nào về được. Còn những người tôi gặp gỡ quen biết họ đều là con dân của vua, xin miễn cho tôi khỏi phải nhắc đến tên của họ. Phần riêng tôi, nếu các quan bắt thì tôi xin sẵn làng chiụ mọi hình khổ, nhưng tôi xin chỉ một mình tôi chịu mà thôi. Xin đừng làm khở những người liên hệ với tôi. Nghe cha Borie Cao trả lời, quan Tỉnh trưởng tỏ ra bất mãn. Quan cho lệnh bắt nằm xuống, đánh đủ 50 roi. Đội lính nọc cha ra, đóng cọc trói chân tay lại, để bên dưới cằm và dưới bụng hai viên gạch rồi đội lính thay nhau đánh đủ 50 roi, máu vọt ra. Cha Borie Cao vẫn nín thinh, tới roi 30 thì đau quá ngài thoi thóp rên rỉ. Đánh xong quan còn hỏi xóc họng: - Đạo trưởng có đau không? Cha thều thào nói trong đau đớn: - Tôi cũng là người có xương có thịt, làm sao lại không cảm thấy đau đớn, nhưng vì Chúa tôi vẫn chịu được. Ngày hôm sau, cả ba linh mục phải ra hầu toà hôm ấy là ngày 4 tháng 8 năm 1838. Trước tiên quan hỏi cha Vũ Đăng Khoa: - Đạo trưởng Khoa trước đây cò biết hai ông Cao và Điểm không? Cha Borie Cao vội trả lời thay: - Bây giờ thì chúng tôi biết nhau cả. Trước đây vì bị bách hại nên mỗi người chúng tôi phải ấn lánh một nơi. Thầy Giảng Phêrô Nguyễn Văn Tự cùng bị bắt với cha Borie Cao cũng bị giam chung với các cha và thầy bị đánh đòn nhiều lắm, nhưng lúc nào thầy cũng tỏ ra can đảm và quyết chí theo các cha cho đến chết. Có lần quan tỉnh Đồng Hới nói với cha Borie Cao: - Nếu ông không khai những người ông quen biết và những nơi ông đã ở thì tôi sẽ ra lệnh tra tấn tên Nguyễn Văn Tự này cho đến chết. Thấy thầy Phêrô Nguyễn Văn Tự bị tra tấn dã man đau đớn quá thì cha khai tên mấy người đã chết và một vài nơi ở miền Bắc mà cách đây cả 7, 8 năm khi cha mới đến Việt Nam đã có dịp đi qua. Quan tỉnh Đồng Hới còn khủng bố tinh thần cha như sau: - Ông không chịu khai, tôi sẽ cho giải ông về Kinh, ở đấy có lò lửa, có kìm sắt nung đỏ, người ta sẽ xẻo thịt ông ra từng mảnh, khi ấy ông còn có gan chịu nổi hay không? Cha trả lời: - Thưa quan lớn, khi nào vua triệu tôi về Kinh lúc ấy sẽ hay. Giờ này tôi chưa dám có ý kiến. Trong nhà tù, cha Borie Cao thường giữ giờ cầu nguyện chung với hai cha và thầy Tự. Lúc bị bắt, một tên lính đã lấy cỗ tràng hạt của cha nên sau đó cha đã dùng nan quạt để lần hạt. Sau này mấy người tới thăm đã tặng cha một cỗ tràng hạt khác và một em bé thường xuyên đưa Mình Thánh Chúa vào cho các cha nên các cha rất vui và tâm hồn luôn bình thản, sẵn sàng đón nhận ý Chúa. Giữa lúc hoàn cảnh khó khăn này, Toà Thánh bổ nhiệm cha Phêrô Dumoulin Borie Cao làm Giám mục miền Tây Bắc Việt với hiệu tòa Acanthe ngay trong nhà tù để thay thế Đức Cha Harvard Du. Nhưng vì đang bị giam tù nên không thể tiến hành nghi lễ tấn phong. Vì lòng khiêm tốn cha vẫn giữ bí mật chưa tiết lộ cho ai, kể cả gia đình và mẹ ngài. Cha chỉ một lòng khiêm nhường và cầu mong được phúc tử vì đạo. Từ trong lao tù, cha viết về cho Hội Thừa Sai Paris những dòng tâm sự này: - Trong tâm hồn tôi vẫn luôn ôm hoài bão được đổ máu ra để đền tội lỗi bản thân…Đeo trên cổ một chiếc gông nặng 12 ký, nhưng tôi cam đoan là sẽ không bao giờ đổi cái gông này để lấy một triều thiên nào, dù quí báu nhất ở trần gian này”. Trong một thư khác gửi cho mẹ và em, cha viết: - Thưa mẹ, ngày 1 tháng 10 năm 1829, ngày đó là hy sinh phải xa mẹ và các em. Xa mà không còn hy vọng gặp lại ở trần gian. Chính sự kiện mẹ và các em vâng theo ý Chúa đã là sức mạnh nâng đỡ, là nguồn an ủi cho con. Hôm nay con báo tin về cho mẹ và các em có một hy sinh mới nữa… Nghe tin này, theo bản tính tự nhiên sẽ than khóc. Nhưng phải nhìn lên tượng Chúa mà trấn an mình. Đó là tin con mong ước sắp được đổ máu mình ra để làm chứng đạo Chúa mà con rao giảng. Thanh gươm hay đoạn giây thừng sẽ là khí cụ kết liễu đời con. Nhưng con không sợ hãi, trái lại con sẽ là người hạnh phúc nhất đời, vì được đổ máu ra để đền tội chính mình và làm chứng cho đạo thánh Chúa. Con vĩnh biệt mẹ và các em”. Ngày 24 tháng 11 năm 1838, Đức Cha Borie Cao, cha Nguyễn Thế Điểm và cha Vũ Đăng Khoa ăn sáng xong thì được báo tin bản án của ba vị đã đượcvua Minh Mạng chuẩn y. Một viên quan vào tận nhà tù đọc bản án. Đức cha Borie Cao bị trảm quyết, cha linh mục Việt Nam bị án xử giảo. Vị quan đọc xong bản án, Đức Cha Borie Cao một mình tự nhiêm đứng dậy và dõng dạc nói: - Từ nhỏ đến nay chưa khi nào tôi sấp mình lạy ai. Nhưng hôm nay tôi sấp mình xuống để cám ơn quan lớn vì đặc ân quan lớn đã làm cho tôi. Nói xong, Đức Cha quì xuống đất lạy ông quan vừa đọc bản án. Ông quan lúng túng, xúc động, không thốt lên lời vội cản ngăn, tới ôm Đức Cha đứng dậy. Sau đó đám người bắt đầu trang nghiêm tiến ra pháp trường Đồng Hới. Đức cha Phêrô Dumoulin Borie Cao cổ vẫn đeo gông, tay cầm trang hạt đọc kinh, hai chân thản nhiên bước đều đều. Trên đường đi, Đức cha gặp một quan chức trước đây nổi tiếng là ghét đạo. Quan tiến lại gần hỏi Đức Cha: - Ông có sợ chết không? - Tôi có phản là tên phản loạn hay trộm cướp gì đâu mà sợ chết. Tôi chỉ sợ một Thiên Chúa. Hôm nay tôi chết, rồi ngày mai sẽ đến lượt người khác, có gì mà sợ. Viên quan chức nghe nói, tưởng là Đức Cha chửi xéo nên ra lệnh vả miệng Đức Cha. Nhưng không chú lính nào dám đánh Đức Cha. Thấy vậy, Đức Cha quay lại xin lỗi: - Bẩm quan, nếu lời tôi nói làm mất lòng quan lớn thì tôi xin quan tha thứ cho tôi. Tiến tới pháp trường Đồng Hới, các cha Nguyễn Thế Điểm và Vũ Văn Khoa bị xử giảo trước. Sau đó tới lượt Đức Cha Borie Cao, họ trói Đức Cha lại. Tên lý hình rất kính trọng Đức Cha, anh phải uống rượu để thi hành lệnh xử Đức Cha. Anh uống hơi quá chén nên say, anh cầm gươm không vững. Anh run rẩy… lúng túng giơ gươm lên cao chém một nhát đầu tiên trúng vào hàm răng và bả vai Đức Cha, máu me tung toé làm Đức Cha rất đau đớn. Anh phải chém tới nhát thứ 5 đầu Đức Cha mới rơi xuống đất. Xác Đức Cha được chôn táng cùng với xác hai cha Việt Nam ngay tại pháp trường Đồng Hới. Một năm sau khi cải táng lên xác Đức Cha vẫn còn nguyên vẹn, rước về mai táng tại nhà thờ Kẻ Gốm, tỉnh Nghệ An. Tới năm 1942 lại đưa về đặt tại nhà nguyện Hội Thừa Sai Paris, Pháp quốc. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã suy tôn Ngài lên bậc Chân Phước ngày 27 tháng 5 năm 1900 và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Ngài lên hàng hiển thánh Tử Đạo Việt Nam ngày 19 tháng 6 năm 1988. Lm. Nguyễn Đức Việt Châu, SSS
tonggiaophanhanoi.org