Thánh Phêrô Trương Văn Thi sinh năm 1763 tại làng Kẻ Sở huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam trong một gia đình Công giáo nghèo nhưng được tiếng là gia đình rất đạo hạnh.
Năm 11 tuổi cậu Phêrô Thi dâng mình vào Nhà Đức Chúa Trời để tu học và tập luyện các nhân đức, rồi cậu Thi được gửi vào nhà trường để học La tinh. Năm 33 tuổi thì thầy Phêrô Trương Văn Thi được trở thành Thầy Giảng. Thầy sốt sắng và nhiệt tình với công vụ được trao phó. Thầy có nhiều sáng kiến và nhờ lòng đạo đức cũng như tinh thần hăng say phục vụ nên Thầy rất thành công trong công việc giảng dạy giáo lý và công cuộc truyền giáo. Sau ít năm, Bề trên nhận thấy Thầy là người có nhiều khả năng tốt lại giầu lòng đạo đức nên Bề trên gọi về học Thần học rồi tới ngày 22 tháng 3 năm 1806 Thầy lãnh chức linh mục năm 43 tuổi. Ngay sau khi lãnh nhận chức linh mục, Bề trên đã bổ nhiệm cha Phêrô Trương Văn Thi về coi sóc giáo xứ Sông Chảy, thuộc phủ Đoàn Hùng, tỉnh Phú Thọ. Suốt cuộc đời linh mục của cha, cha đã phục vụ giáo xứ này trong 27 năm trường, từ năm 1806 tới năm 1833. Tới năm 1833 lúc cha đã 70 tuổi, Bề trên lại bổ nhiệm cha về nhận chánh xứ Kẻ Sông cho tới năm 1839 được phúc tử vì đạo. Theo lời chứng của các tín hữu trong các giáo xứ này thì cha Phêrô Trương Văn Thi “là một linh mục đạo đức rất đặc biệt. Mỗi ngày cha đọc kinh lâu giờ ba bốn lần, dâng lễ nghiêm trang, ăn uống đạm bạc, thường ăn chay các ngày thứ Sáu, mặc dầu sức khoẻ của Ngài rất yếu kém với chứng hay bị sốt và đau bụng thường xuyên”. Cha Jeantet Khiêm, sau làm Giám mục Tây Đàng Ngoài đã viết về cha Phêrô Trương Văn Thi như sau: “Tôi quen biết ngài từ năm 1835, tôi cảm phục ngài về lòng đạo đức sâu xa, tính tình hiền hoà, khôn ngoan và rất trung thành gìn giữ lề luật”. Cha sống rất nghèo khó, ngoài áo chùng thâm, cha chỉ mặc bộ đồ nâu vải sồi như những người nông dân nghèo nàn trong vùng. Tại nhà xứ, mọi người phải giữ kỷ luật nghiêm chỉnh, chăm chỉ học hành, đọc sách và không được nói chuyện với nữ giới lâu giờ. Chính ngài, khi tiếp khách cũng rất mực khiêm tốn, ít lời. Nhưng với các anh em linh mục thì ngài tỏ ra rất hiếu khách, truyện trò vui vẻ, đón tiếp tận tình. Tuy là cha xứ một xứ lớn, nhưng cha còn phải kiêm nhiệm thêm nhiều họ lẻ nữa, vì thế trong một năm cha chỉ ở tại nhà xứ chừng hai tháng, còn lại thì cha tới ở tại mỗi họ lẻ chừng một tháng để lắng nghe và giúp đỡ, dạy dỗ và khuyến khích giáo hữu sống đạo tốt, thi hành đức bác ái với nhau cách trọn vẹn hơn. Một lần kia khi cha tới giúp họ Thác Ba đi trên chiếc thuyền đò qua sông bị đắm. Người đi theo giúp cha bị chết đuối, còn cha sống sót nhờ may mắn ôm hòm đựng đồ lễ nên không bị chìm. Tới năm 1838 do sắc lệnh nghiêm ngặt của vua Minh Mạng cấm đạo trên toàn quốc rất dữ dội, cha Phêrô Trương Văn Thi phải ẩn trốn trong các nhà giáo dân, nay đây mai đó, không thể làm mục vụ được. Nhiều khi có những bệnh nhân hấp hối gần chết mà ngưòi ta cũng không dám mời cha tới vì sợ cha bị bắt. Cha căn dặn họ phải giúp bệnh nhân dọn mình chết lành, dâng phó mọi sự cho Chúa, để Chúa xếp liệu. Phần cha, vì tuổi già sức yếu mà phải trốn tránh, sống chui rúc dưới hầm dưới hố nhưng cha rất vui vẻ, can đảm, niềm nở với mọi người. Cha luôn tín thác mọi sự trong tay Chúa. Có lần cha tâm sự với giáo dân, những người hay lui tới giúp đỡ cha trốn tránh rằng: “Cha phó dâng hồn xác cha trong tay nhân từ của Chúa. Nếu Chúa muốn cha dâng sự sống của Cha để làm chứng cho đạo thánh Chúa thì cha sẵn lòng vâng theo ý Chúa. Cha chỉ sợ Chúa không nhận cha vì cha tội lỗi, bất xứng mà thôi”. Ngày 10 tháng 10 năm 1839, cha Anrê Dũng Lạc ở xứ bên cạnh thường hay lui tới gặp cha Phêrô Thi để bàn hỏi công việc mục vụ và xưng tội. Hôm ấy viên lý trưởng trong làng biết tin cha Dũng Lạc tới và cha Thi đang trú ẩn tại nhà ông khán Hộ nên bất thần ông đưa bốn người gia nhân đến bắt hai cha. Lúc bấy giờ là 12 giờ trưa. Lúc đầu lý Pháp ra lệnh trói cả hai cha, nhưng sau thì lại ra lệnh cởi trói và mời hai cha ngồi để nói chuyện. Lý Pháp hỏi hai cha: – Các ông biết là đã có lệnh vua cấm đạo Gia Tô rồi mà tại sao các ông còn ngoan cố sống lén lút và đi truyền đạo? Cha Phêrô Trương Văn Thi trả lời: – Thiên Chúa sai chúng tôi đi để dạy người ta tập tành nhân đức, sống tốt lành, làm việc thiện ích, tôn kính cha mẹ. Đạo chúng tôi không dạy điều gì sai trái cả. – Dù đạo phải hay trái không thành vấn đề, nhưng có lệnh vua cấm thì tôi phải bắt các ông. Cha Dũng Lạc nói: – Điều đó tùy ý các ông. Chúng tôi luôn trung thành thi hành bổn phận của chúng tôi, dù có phải chết vì đạo Chúa chúng tôi. Tuy ông lý trưởng nói thế, nhưng ông lại đề nghị nộp cho ông 200 quan thì ông sẽ trả tự do cho hai cha. Hai cha nói, điều đó tùy các tín hữu. Lý trưởng Pháp cho gọi các tín hữu tới để dàn xếp công việc. Khi các tín hữu mới góp được 100 quan, thì ông chỉ tha cha Dũng Lạc, còn cha Thi thì ông ra lệnh giữ lại. Cha Dũng Lạc trên đường trở về nhà, một toán lính khác lại phục kích bắt cha. Được tin đó, lý Pháp sợ bị lộ nên không dám cho giáo hữu chuộc cha Thi nữa. Ông cho áp giải cha Thi về nộp cho quan huyện Bình Lục. Trên đường bị giải về huyện Bình Lục, cha Phêrô Thi lại gặp bọn lính khác cũng áp giải cha Dũng Lac về huyện. Thế là từ đây, hai cha vui mừng cùng chung một số phận tù tội và được sống bên nhau cho tới khi lãnh triều thiên tử đạo trên Nước Trời. Tới huyện Bình Lục, vì các tín hữu đã đút lót với quan huyện nên chỉ làm tờ trình là bắt được hai cha ở ngoài đồng lúa để giáo dân không bị liên lụy. Quan huyện vui vẻ chấp nhận và khi thấy cha Trương Văn Thi đã già yếu mà trời rất lạnh thì quan hỏi cha Thi có chăn (mền) đắp không thì anh đội lính thưa thay cha rằng: – “Ông Lý Pháp đã lấy chăn và quần áo của cha rồi”. Nghe nói thế, quan huyện nổi nóng quát lớn: – “Bảo Lý Pháp phải trả lại ngay chiếc chăn và quần áo cho cha Thi”. Quan huyện Bình Lục tiếp đón các ngài rất tử tế, mời các ngài ngồi trên chiếc chiếu sạch sẽ, nói chuyện đàng hoàng. Khi giáo dân dọn cơm thì quan bắt lấy mâm của mình mà dọn cho hai cha ăn. Sau ba ngày, quan huyện Bình Lục cho giải hai cha về Hà Nội. Giáo dân đông đảo theo khóc lóc. Nhìn cảnh cha con từ giã nhau, quan huyện xúc động an ủi và hỏi: – Đạo dạy những gì mà các tín hữu thương khóc các ngài như thế hả? Một bà cụ nghe quan huyện hỏi thì thưa lại: – Bẩm quan lớn, các Cụ dạy chúng tôi những điều nhân đức. Chồng phải hiền lành, không cờ bạc, rượu chè, gian dâm, còn vợ thì phải biết nhịn nhục, vâng lời chồng, thủy chung với chồng. Con cái phải kính trọng cha mẹ, thảo hiếu với cha mẹ. Thấy cha Thi vì già yếu, đi không được nữa, quan bảo giáo dân thuê cáng để đưa cha đi. Quan huyện Bình Lục rất trọng kính và quí mến hai cha. Ngày hôm trước khi cho lệnh đưa nộp hai cha về Hà Nội, quan huyện cho lệnh giết heo để cúng tế trời đất và lớn tiếng thanh minh: – Không phải lỗi tại tôi muốn bắt bớ những người hiền lành đạo đức như thế này. Nhưng chỉ vì lệnh vua ban xuống, tôi phải vâng theo mà thôi. Xin án phạt có xuống thì xuống trên người đã ra lệnh, bề dưới phải tuân theo mà thôi. Hai cha được đưa lên Hà Nội bằng thuyền theo đường sông Hồng Hà. Giáo dân kẻ đi thuyền người đi bộ, đi theo rất đông. Ngày 16 tháng 11 thuyền cập bến. Hai cha bị áp giải đưa vào nộp cho quan Tổng Đốc, và được giam trong trại gần cửa đông, không phải ở chung với các tù nhân khác. Các lính gác cũng xử đối với hai cha rất tử tế. Họ nói: – Chúng tôi biết các cụ không phải như các tù nhân khác. Hai cụ hiền lành không nghĩ tới việc trốn nên chúng tôi chẳng dám làm khổ các cụ.Cha Thi vì già yếu nên không phải đeo gông, còn cha Dũng Lạc thì chỉ phải đeo gông có 3 tối mà thôi. Khi lính đưa đồ ăn tới cho hai cha thì hai cha lại chia sẻ cho lính canh gác cùng ăn. Một ngày hai buổi các cha đọc kinh chung với nhau trong sự bình an, tin cậy mọi sự nơi Chúa. Về vật chất thì có tổng Thìn và bà Ro thuộc nhà dòng Kẻ Bối thường lui tới thăm nuôi. Hai cha phải tra khảo ba lần. Mỗi khi bị tra khảo thì cha Thi vì già yếu và tai bị hễnh hàng nên mọi chuyện cha Dũng Lạc trả lời thay cho cha Thi hết. Quan huyện Bình Lục cũng trình với quan đốc rằng “hai Cụ Đạo Trưởng thà chịu chết chứ không bước qua ảnh đạo. Tôi đã thúc ép hai lần ở dưới huyện mà không sao thuyết phục được các cụ. Hai cụ này hiền lành và thật tha, xin quan đốc thương xét” Đã ba lần quan thượng khuyên dụ hai cha quá khoá nhưng các ngài vẫn một mực cương quyết thà chết chứ nhất định không bước qua Thập Giá. Có lần anh lính đã đẩy cha Thi ngã sấp mình xuống cây Thập Giá. Cha ôm hôn Thập Giá. Cha Dũng Lạc cũng bị xô ngã. Nhưng cha Dũng Lạc chỗi dậy được. Các quan biết không thể thuyết phục được hai vị chiến sĩ Đức Tin dũng cảm này nên các quan đã làm bản án tử hình cho các ngài như sau: “Sau khi họp Hội Đồng, các thần là Nguyễn Phúc Hoan, quan hộ và Lương Mộc Quang, quan án, đã xem xét kỹ lưỡng hai tội phạm Trần An Lạc (cũng gọi là Dũng Lạc) và Trương Văn Thi đã theo tà đạo Gia Tô từ thuở nhỏ và dụ dỗ lê dân. Họ đã ghi khắc sâu đạo lý sai lầm từ lâu chứ không phải một vài ngày. Hoàng Thượng đã ra nhiều chiếu chỉ cấm dạy dỗ dân chúng đạo này và bắt từ bỏ những thói tục sai trái. Thế nhưng họ chẳng những đã không tuân lệnh mà còn tàng trữ sách đạo và ẩn trốn cho đến ngày bị bắt. Được khuyên bảo bước qua Thập Giá mà họ vẫn một mực cố chấp, xin được chết hơn là làm điều này. Hiển nhiên là đạo này đã ăn sâu vào tâm hồn chúng. Vậy các thần xét nghĩ là họ đáng chết theo như luật quốc gia đã định rằng kẻ nào tàng trữ sách quấy phá, hoặc dạy dỗ thực hành quái lạ thì phải giam trong ngục cho đến khi được định thể khác. Vậy đối với hai tội phạm Trần An Dũng (Lạc) và Trương Văn Thi, các thần muốn áp dụng khoản luật này. Nhưng xét cho cùng, hai tội phạm này đáng chịu một hình phạt nặng nề hơn nữa. Chúng phải chém đầu để răn bảo những người khác, xem gương mà khiếp sợ.” Trong khi chờ đợi bản án được châu phê, cha Thi biết chắc mình sẽ được phúc tử đạo. Cha Phêrô Trương Văn Thi sốt sắng dọn mình xưng tội, đọc kinh cầu nguyện và ăn chay các ngày thứ Tư, Sáu, Bảy. Ngày 21 tháng 12, cha Trân lén mang Mình Thánh Chúa vào cho cha Dũng Lạc nhận rồi trao cho cha Thi cùng rước Mình Thánh Chúa. Đây là lần cuối cùng hai cha được rước Mình Thánh Chúa trong nhà tù dưới trần gian. Cũng chính trưa ngày hôm ấy, hai cha nhận được tin bản án đã được châu phê. Hai cha vội đem phân phát cho các lính canh những đồ dùng còn lại. Ngay sau đó, quan quân thi hành án lệnh dẫn các cha ra pháp trường. Cha Phêrô Trương Văn Thi vì già sức yếu đã ngã trên đường. Lúc ấy có một tên lính đến nói nhỏ với cha, mình cũng là một tín đồ, xin cõng cha trên lưng. Cha liền cởi đôi xăng đan, một đồ dùng cuối cùng trao cho anh. Tới pháp trường là Ô Cầu Giấy, cha quì cầu nguyện trên chiếc chiếu do các bà Dòng đã trải sẵn. Quan ra lệnh dân chúng phải đứng ở xa và khi nghe hiệu lệnh thì lý hình phải chém ngay một nhát đứt đầu. Thi hành xong mọi việc thì quan quân rút về. Giáo dân chạy tới thấm máu vị tử đạo, thâu lượm các di vật rồi nhận xác cha thánh Phêrô Trương Văn Thi đem về cử hành lễ an táng long trọng tại Kẻ Sở. Sau đó dân chúng truyền khẩu cho tới ngày nay, nói rằng: ông lý Pháp bắt hai cha đã hóa ra điên khùng, còn cô con gái của ông lấy khăn thánh may yếm để mặc đã bị thổ tả chết ngay một ngày sau khi mặc chiếc yếm ấy vào người. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đã suy tôn cha Phêrô Trương Văn Thi lên bậc Chân Phước ngày 27 tháng 5 năm 1900. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo Việt Nam ngày 19 tháng 6 năm 1988. ChaThánh Phêrô Trương Văn Thi
Một lòng vì Chúa ra đi
Tuổi già sức kiệt cha Thi ngã hoài
Giáo dân là lính đến nài:
Cha cho con cõng, cha hài lòng không?
Đôi xăng đan, món cuối cùng
Cởi ra cho lại đồ dùng trần gian
Đây Ô Cầu Giấy là bàn
Hiến dâng thân xác Chúa ban về trời
Lệnh quan Giám Sát truyền lời
Cấm ai thấm máu lính thời phải tuân
Chém đồng loạt chỉ một lần
Thật điêu luyện, chém một phần dính thân
Ý là muốn giúp giáo dân
Dễ dàng ráp lại trọn phần khi chôn
Nhưng quan bắt cắt đứt luôn
Đầu lìa hẳn cổ kẻ buồn người vui
Quan và lính mới rút lui
Đem về Kẻ Sở chọn nơi táng Ngài
Ác nhân ác báo chẳng sai
Trưởng làng tên Phát vì ai điên cuồng
Còn cô con gái đã dùng
Khăn thờ may yếm, lăn đùng chết ngay
Mặc vào mới được một ngày
Tấm gương phạm thánh đời này nhớ ghi.
(Trương Hoàng)
Lm. Nguyễn Đức Việt Châu SSS
httonggiaophanhanoi.org