TÌM HIỂU CÁC TÔNG ĐỒ
D.D. Emmons
Có lẽ chúng ta không còn là Kitô hữu khi loại bỏ các tông đồ. Không có những con người trung thành và can đảm này, chúng ta sẽ không biết Tin mừng và Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Mười hai tông đồ đầu tiên cùng với Phaolô và Mátthia là nền móng cho đức tin của chúng ta. Chính các ngài đã loan truyền sứ điệp của Đức Giêsu, chia sẻ câu chuyện phục sinh cho hầu hết phần thế giới được biết đến vào thế kỷ I (Rôma lúc bấy giờ được xem là tận cùng trái đất). Sau lễ Ngũ tuần, các ngài kiên quyết dấn thân vì Đức Kitô, đến độ sẵn sàng chịu đau khổ và hi sinh mạng sống; thật vậy, hầu hết các ngài đã chịu tử đạo.
Về tầm quan trọng của các tông đồ, chúng ta lại ít biết về một vài vị trong số họ, và những gì chúng ta thực sự biết phần lớn dựa trên truyền thống hoặc truyền thuyết. Chúng ta có thể phỏng đoán một số điều về các tông đồ nhưng tất cả đều dựa trên văn hóa Do Thái. Chẳng hạn, vị Thầy (Giêsu) luôn lớn tuổi hơn môn đệ, nên các tông đồ có lẽ dưới 30 tuổi và một vài vị có thể đang tuổi niên thiếu. Là những người trẻ và ngư dân, có lẽ họ có sức khỏe tốt, là điều cần thiết để theo Đức Giêsu khắp miền Galilê. Hầu hết họ đều ít học, có lẽ ngoại trừ Mátthêu người thu thuế. Họ ít đi đây đi đó, chất phác, sống và lao động tại địa phương. Thánh Josemaría Escrivá đã viết về các Tông đồ như sau: “Các tông đồ chỉ là những người đánh cá.... Họ ít học; thậm chí không được thông minh lắm, nếu chúng ta nhìn cách họ phản ứng trước những điều siêu nhiên.... Họ nghèo và kém hiểu biết”. Thế nhưng, Đức Giêsu đã kêu gọi họ trở thành chứng nhân của Ngài cho toàn thể nhân loại.
Nêu tên các tông đồ
Trong các lớp giáo lý cho người dự tòng trưởng thành, có lúc người hướng dẫn yêu cầu học viên nêu tên các tông đồ đầu tiên. Thông thường, có người sẽ trả lời: “Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan”, rồi ngập ngừng “và Phaolô”. Nhiều học viên, và các Kitô hữu khác, phải chật vật để kể tên nhóm Mười hai và thường nghĩ rằng các tác giả Tin mừng đều là các tông đồ.
Các tông đồ gồm: Phêrô, Anrê, Giacôbê Tiền, Gioan, Philípphê, Batôlômêô (Nathanaen), Tôma, Mátthêu (Lêvi), Giacôbê Hậu, Giuđa (Tađêô), Simon và Giuđa, cộng thêm Mátthia và Phaolô là hai vị không thuộc nhóm Mười hai. Ba Tin mừng Nhất lãm, cùng với sách Công vụ Tông đồ, xác nhận việc tuyển chọn nhóm Mười hai tông đồ đầu tiên. Một số tên gọi có khác nhau đôi chút nhưng cùng chỉ một người. Theo Tin mừng thánh Mátthêu, thì Anrê, Phêrô, cùng với Giacôbê và Gioan, tiếp theo là Philípphê là những tông đồ đầu tiên được chọn. Họ đều là ngư dân; trên thực tế, hầu hết nhóm Mười hai cũng vậy. Họ có một đức tính đặc biệt nơi mọi ngư dân năng nổ, đó là đức kiên nhẫn; họ giăng câu hay quăng lưới và chờ đợi. Đức tính này sẽ hữu ích khi Đức Kitô kêu gọi họ trở thành những kẻ lưới người. Sau khi chọn năm vị đầu tiên này, Đức Giêsu tiếp tục gọi Mátthêu, một người thu thuế, và sau đó là Batôlômêô. Tin mừng không đề cập cụ thể việc Đức Giêsu gọi từng tông đồ còn lại, mặc dù họ được nêu tên cùng với nhóm tông đồ ở một số nơi trong Tin mừng.
Đức Giêsu ban ơn cho các tông đồ
Ba năm sống với Đức Giêsu, nghe giảng và chứng kiến các phép lạ Ngài làm; các tông đồ đã sẵn sàng cho một sứ mạng lớn lao. Đức Giêsu đã ban cho các tông đồ những ân huệ thần linh, bao gồm ơn tha tội, khả năng chữa lành và việc biến bánh rượu thành Mình Máu Ngài. Không một người thường nào có thể trao cho người khác những khả năng đến từ Thiên Chúa. Một tuyển thủ bóng chày xuất sắc của đội bóng lớn có thể trình diễn và giải thích cách anh ta ném bóng, nhưng không thể làm cho người khác thấm nhuần tài nghệ riêng của mình. Một giáo lý viên có thể bàn luận cách cầu nguyện, nhưng sự thành tâm phải đến từ bản thân người cầu nguyện. Tuy nhiên, Đức Giêsu là Đấng thần thiêng, còn ban cho các tông đồ những lời lẽ cần thiết để công bố Tin mừng.
Ban đầu Đức Giêsu giới hạn Nhóm Mười hai giảng dạy nơi người Do Thái mà thôi: “... đừng đi về phía các dân ngoại... hãy đến với các con chiên lạc nhà Ítraen” (Mt 10,5–6). Hai năm sau, Ngài đưa ra lệnh truyền quan trọng khi bảo các tông đồ đi đến các nơi ngoài đất Do Thái “làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19–20).
Sau khi công bố lệnh truyền quan trọng và ngay trước khi về với Chúa Cha, Đức Giêsu truyền cho các tông đồ ở lại Giêrusalem, chờ đợi “điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới” (Cv 1,4). Tóm lại, họ chưa thể thực thi sứ mạng cho đến khi nhận lãnh Thánh Thần. Những người trở lại đầu tiên đều là người Do Thái; các tông đồ đã không khởi sự rao giảng cho những người ngoài Do Thái trong khoảng 10 năm sau đó. Họ sẽ được những người khác như Banaba và Timôthê hỗ trợ để hoàn tất công việc linh thánh này.
Những con người bất toàn
Họ là những con người bất toàn, đầy khiếm khuyết như được kể trong các sách Tin mừng: đôi lúc họ nghi ngờ, khước từ thậm chí phản bội Đức Giêsu; họ chậm hiểu và thắc mắc về một số việc Ngài làm. Giuđa phản bội Ngài và sau đó ra ngoài treo cổ tự vẫn. Phêrô thì chối Chúa ba lần. Trừ Gioan, tất cả đã bỏ rơi Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn. Tôma khước từ câu chuyện Đức Kitô sống lại, và hầu hết các ông đều không tin các phụ nữ vào buổi sáng phục sinh rằng Ngài đã sống lại. Philípphê tỏ ra kém tin khi hỏi làm sao Đức Giêsu có thể cho 5000 người ăn với chỉ vài con cá. Chỉ sau biến cố phục sinh các tông đồ mới được ban đầy đức tin vững vàng và trọn vẹn vào Đức Giêsu.
Trước lễ Ngũ tuần, họ sợ hãi chạy trốn; giờ đây họ sẵn sàng ca tụng danh Ngài đến tận cùng trái đất, mặc dù điều đó khiến họ bị căm ghét, đánh đập và cầm tù. Hầu hết, họ đi từng người từ Giêrusalem đến Ấn Độ, qua Ba Tư, rồi Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Bắc Phi, Ukraina, Ai Cập, Syria, khắp Địa Trung Hải và Trung Đông. Đây chưa phải là danh sách đầy đủ các quốc gia, nhưng nếu tính thêm nỗ lực của thánh Phaolô, người đã thực hiện hành trình truyền giáo hơn 10.000 dặm, bao gồm cả châu Âu, thì các tông đồ đã làm cho Kitô giáo loan truyền hầu khắp thế giới được biết đến vào thời đó. Ngoại trừ các thành phố như Giêrusalem, Antiôkhia và Rôma, họ thi hành sứ vụ nơi các cộng đồng Kitô giáo nhỏ bé nơi họ đã bỏ cả mạng sống mình trong nhiều trường hợp. Kinh thánh chỉ kể về cái chết của hai tông đồ: thánh Giacôbê Tiền, người bị giết bởi vua Hêrôđê; và Giuđa, người đã treo cổ tự vẫn. Theo truyền thống và truyền thuyết, chúng ta biết Phêrô đã bị đóng đinh ngược ở Rôma; và gần đó vào cùng ngày, Phaolô bị chém đầu. Anrê bị đóng đinh vào thập giá hình chữ X, Batôlômêô bị lột da sống, Mátthêu bị ném đá và sau đó chém đầu, còn Tôma bị đâm bằng giáo cho đến chết. Tất cả các tông đồ đều chịu tử đạo chỉ trừ Gioan đã chết cách tự nhiên.
Chẳng bao lâu sau, Kitô giáo không còn là sản phẩm phụ của Do Thái giáo mà đã phát triển thành một Giáo hội phổ quát. Các tông đồ đã phải đi những chuyến hành trình dài và nguy hiểm, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, và biết rằng mình vẫn bị người Rôma và nhiều người Do Thái muốn bách hại. Nhưng hầu như bất cứ nơi nào họ đến, họ thu hút những người tìm hiểu về Đức Kitô phục sinh, về sứ điệp tình yêu của Ngài, về sự sống đời đời. Những con người thánh thiện này vẫn là hình mẫu cho chúng ta.
GẶP GỠ CÁC TÔNG ĐỒ
Thánh Phêrô
Phêrô chối Đức Giêsu ba lần vào đêm Ngài bị bắt, “trước khi gà gáy hai lần”, đúng như lời Đức Giêsu đã báo trước (Mc 14,30). Tuy nhiên, ngay sau lần chối từ đau thương nầy, Đấng Cứu Độ đầy thương xót đã tha thứ cho Phêrô và cắt đặt ông làm người đứng đầu Giáo hội trên trần gian. Phêrô trở thành thủ lãnh các tông đồ, và nhờ ơn Thánh Thần, là người đầu tiên rao giảng Tin mừng cho người Do Thái. Bất cứ nơi nào trong Tân ước kể tên 12 môn đệ đầu tiên, Phêrô luôn được nêu tên đầu tiên.
Trong Tin mừng theo thánh Luca, Đức Giêsu trước tiên gặp Phêrô, Giacôbê và Gioan tại hồ Ghennêxarét, nơi họ thả lưới suốt đêm nhưng không bắt được gì. Đức Giêsu đề nghị họ thả lưới thêm một lần nữa. Phêrô phàn nàn vì mẻ lưới trước nhưng rồi cũng đồng ý làm theo. Bất ngờ, họ bắt được rất nhiều cá đến nỗi lưới không thể chứa hết. Phêrô xấp mình trước Đức Giêsu và thưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Đức Giêsu bảo ông đừng sợ, rồi nói với ba người ngư phủ: “‘Từ nay các anh sẽ thu phục người ta’... rồi họ bỏ tất cả mà đi theo Người” (Lc 5,8–11).
Phêrô tỏ ra thiếu lòng tin và thậm chí nhiều lần tranh luận với Đức Giêsu. Ông cho thấy một lòng tin kém cỏi khi cố đi trên mặt nước mà đến cùng Đức Giêsu; chỉ cần Phêrô chú ý đến Đấng Cứu Độ thì ông không sao, nhưng một khi rời mắt khỏi Đức Giêsu, thì ông bắt đầu chìm (x. Mt 14,28–33). Phêrô cãi lời Đức Giêsu khi Ngài bảo rằng sẽ bị người Do Thái giết, và một lần khác khi muốn rửa chân cho ông. Cùng với Giacôbê và Gioan, Phêrô ngủ quên khi Đức Kitô lo âu khắc khoải trong vườn dầu. Nhưng đối lại tất cả những khiếm khuyết nhân loại này, Đức Giêsu nhìn thấy Phêrô là người lãnh đạo Giáo hội bằng việc trở thành giáo hoàng đầu tiên. Không chỉ rao giảng cho người Do Thái, Phêrô còn làm cho người ngoại đầu tiên trở lại: ông Cornêliô, viên đại đội trưởng (xem Cv 10).
Thánh Tôma
Thánh Tôma được ghi nhớ như là vị tông đồ đã nghi ngờ khi nghe tin Đức Kitô phục sinh hiện ra với các tông đồ khác trong phòng Tiệc ly. Tôma vẫn không bị thuyết phục cho đến khi ông đặt bàn tay vào vết thương của Đức Kitô. Sự hoài nghi ban đầu của ông có thể hiểu được vì Đức Kitô đã bị đóng đinh và được đặt trong ngôi mộ kín có niêm phong. Theo thánh Giáo hoàng Grêgôriô Cả, không phải ngẫu nhiên mà Tôma vắng mặt khi Đức Kitô hiện ra với các tông đồ khác: “Với một cách kỳ diệu, lòng thương xót của Thiên Chúa đã an bài cho người môn đệ không tin này, khi chạm vào các vết thương trên thân thể Thầy của mình, sẽ chữa lành vết thương hoài nghi của chúng ta. Sự hoài nghi của Tôma đã tác động đến đức tin của chúng ta nhiều hơn là bởi đức tin của các môn đệ khác. Vì Tôma chạm vào Đức Kitô và bị chinh phục để tin, mọi ngờ vực đều được gạt qua một bên và đức tin của chúng ta được củng cố. Vì vậy, người môn đệ hoài nghi, sau đó cảm nhận được vết thương của Đức Kitô, trở thành nhân chứng cho thực tại phục sinh”. Tôma là chứng nhân cho chúng ta, đôi mắt và đôi tay của ngài cũng là đôi mắt, đôi tay của chúng ta, chúng ta không còn nghi ngờ...Đức Kitô đang sống.
Thánh Giacôbê và Gioan
Hai anh em Giacôbê và Gioan cùng với Phêrô là những tông đồ duy nhất đồng hành với Đức Giêsu trong ba biến cố đặc biệt: con gái ông Giaia sống lại, biến hình trên núi Tabo, tại vườn Giếtsêmani vào đêm trước cuộc khổ nạn. Theo đó, ba vị được coi là nhóm thân cận, gần gũi nhất với Đức Giêsu. Giacôbê được biết đến với tên Giacôbê Tiền, đơn giản chỉ để phân biệt ngài với một tông đồ khác cũng tên Giacôbê. Giacôbê Tiền là vị tông đồ đầu tiên đổ máu vì Đức Giêsu, khi bị sát hại theo lệnh vua Hêrôđê Agríppa vào năm 44, để làm “đẹp lòng người Do Thái” (Cv 12,3). Gioan là vị tông đồ duy nhất đứng bên thánh giá khi Đức Giêsu chịu đóng đinh; những người khác đều đã bỏ chạy. Từ thánh giá, Đức Giêsu đã trao Đức Maria, mẹ Ngài cho Gioan chăm sóc, để cho thấy sự gắn kết độc nhất giữa Đức Giêsu và Gioan.
Mẹ của Giacôbê và Gioan đã xin Đức Giêsu cho hai người con của bà được ngồi một đứa bên hữu và một đứa bên tả trong Nước Ngài. Đức Giêsu nói với bà: “Các người không biết các người xin gì”. Trước mặt tất cả các tông đồ, Ngài giải thích rằng quyền hành đều đến từ Chúa Cha, từ lời kêu gọi thần linh chứ không phải từ tham vọng cá nhân và Ngài nói thêm: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”(Mt 20,22.26–28).
Thánh Philípphê và Bartôlômêô
Tại miền Galilê, Đức Giêsu đã kêu gọi Philípphê làm tông đồ. Đến lượt Philípphê tìm đến Bartôlômêô (hay Nathanaen) và nói với ông rằng Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét.
Sau đó Bartôlômêô nói những lời mà chúng ta ai cũng biết: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46). Bất chấp sự khước từ này, Philípphê vẫn dẫn Bartôlômêô đến với Đức Giêsu, để ông quyết tâm kiểm chứng Đức Giêsu. Nhưng không có gì để kiểm chứng cả bởi vì Bartôlômêô nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia đích thực, ngài nói: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ítraen!” (Ga 1,49). Lời tuyên xưng này không khác gì lời tuyên xưng của Phêrô nhiều tháng sau đó: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ ơn trên mà cả Bartôlômêô và Phêrô đều nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa.
Ít nhất hai lần, qua Philípphê mà Đức Giêsu giúp các môn đồ hiểu ra vai trò và chân tính của Ngài. Lúc làm phép lạ hóa bánh ra nhiều trong Tin mừng Gioan, Philípphê lo lắng không biết làm sao cho 5.000 người ăn: “Có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6,7). Philípphê kinh ngạc khi thấy Đức Giêsu biến ít cá và bánh đủ cho tất cả mọi người ăn. Sau đó trong Bữa Tiệc ly, Chúa quở trách Philípphê khi vị tông đồ này hỏi: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giêsu đáp: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư?” (Ga 14,8–9). Tất cả các tông đồ đều xem Đức Giêsu là thầy, nhưng một số chậm nhận ra Ngài là Đấng cứu độ.
Cũng cần lưu ý rằng không nên nhầm lẫn Philípphê tông đồ với Philípphê nhà truyền giáo, người đã thành công khi mang sứ điệp của Đức Giêsu đến miền Samari và làm phép rửa cho một viên thái giám người Êthióp trên con đường vắng giữa Giêrusalem và Gada (xem Cv 8,27–39).
Thánh Phaolô
Mặc dù không nằm trong số 12 tông đồ đầu tiên, nhưng Phaolô được Đức Giêsu chọn là “lợi khí [Ta chọn] để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Ítraen” (Cv 9,15). Phaolô (ban đầu được gọi là Saulô) là một trong những người thù ghét Kitô giáo cực đoan nhất vào thời của ngài. Phaolô là người chứng kiến và ủng hộ việc ném đá thánh Stêphanô, và ngài đã xuất sắc bắt các Kitô hữu giải về Giêrusalem và nộp họ cho giới cầm quyền Do Thái để bị bách hại.
Lúc Phaolô đang trên đường đi Đamát để bắt thêm những người đi theo Đức Kitô. Giữa đường, ngài đã mặt giáp mặt với Đức Giêsu, bị mù và hoán cải, được đưa vào thành Đamát và đến một ngôi nhà ở phố gọi là Phố Thẳng. Tại đây, ngài được sáng mắt trở lại và chịu phép rửa. Từ đó Phaolô trở thành người vĩ đại nhất trong số những người rao giảng Tin mừng, vị Tông đồ dân ngoại. Ngài thiết lập ít nhất 14 cộng đoàn Kitô hữu và rao giảng cho hàng nghìn người khi đi qua đi lại Trung Đông và vào đến châu Âu bốn lần khác nhau. Các lá thư gửi đến các cộng đoàn do ngài đã thiết lập chiếm phần lớn Tân ước.
Thánh Giacôbê Hậu
Giacôbê Hậu là vị thủ lãnh có ảnh hưởng của giáo đoàn Giêrusalem và có tiếng nói quyết định tại Công đồng Giêrusalem (năm 50), nơi các tông đồ quyết định loan truyền giáo huấn của Đức Giêsu cho dân ngoại. Giacôbê đã ủng hộ ý tưởng không bắt dân ngoại phải trở thành người Do Thái trước khi trở thành Kitô hữu: “Vì vậy, phần tôi, tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa” (Cv 15,19).
Giacôbê đã viết một lá thư gửi đến dân ngoại, cơ bản chỉ ra rằng dân ngoại không cần phải giữ tất cả các luật lệ về việc kiêng ăn uống của người Do Thái hoặc phải cắt bì trước khi trở thành Kitô hữu, nhưng trước hết chỉ đòi hỏi những ai đang theo Đức Kitô phải từ bỏ việc cúng tế ngoại giáo. Những hành động này đã vượt qua trở ngại lớn trong việc hoán cải và làm phép rửa cho những người ở mọi quốc gia, chứ không chỉ cho người Do Thái. Thánh Giacôbê Hậu cũng được xem là tác giả của thư Giacôbê trong Tân ước.
Thánh Mátthêu
Mátthêu là viên thu thuế cho người Rôma đang chiếm đóng ở Galilê. Người Do Thái ghét những người thu thuế, vì họ làm việc cho người Rôma và thường gian lận đối với dân chúng. Đức Giêsu thấy Mátthêu (Lêvi) “đang ngồi ở trạm thu thuế. Ngài bảo ông: ‘Anh hãy theo tôi!’ Ông đứng dậy đi theo Người” (Mc 2,14).
Trong mắt người Do Thái, Mátthêu là một kẻ đáng khinh, một kẻ bị ruồng bỏ không hơn gì một tội nhân do công việc thu thuế của ông, nhưng Đức Giêsu, với tình yêu và lòng thương xót chứa chan, đã thấu hiểu tấm lòng Mátthêu và kêu gọi ông trở thành một trong các tông đồ. Mátthêu đã từ bỏ mọi sự để đi theo và tin vào Đức Kitô. Mặc dù không có nhiều chi tiết về thánh Mátthêu, nhưng có bằng chứng cho thấy ngài đã đi truyền giáo ở Ấn Độ, và trở thành vị thánh bảo trợ của đất nước này.
Anrê, Simon, Giuđa và Mátthia
Kinh thánh có ít chi tiết về Anrê, Simon, Giuđa và Mátthia. Tuy nhiên, mỗi người đều theo Đức Kitô và đi giảng dạy Tin mừng. Anrê thuộc nhóm tông đồ được chọn đầu tiên và là người trước tiên gọi Đức Giêsu là Đấng Mêsia; do đó, ngài rất gắn bó với Đức Giêsu. Simon có thể là thành viên của một nhóm chính trị Do Thái gọi là nhóm Nhiệt thành, những người kiên quyết với đức tin Do Thái giáo và ghét người Rôma. Đức Giêsu đã chinh phục được Simon, và vị tông đồ này đã chuyển lòng nhiệt thành và sức lực của ngài vào sứ điệp của Đức Kitô.
Trong Tin mừng theo thánh Mátthêu và Máccô, Giuđa được gọi là Tađêô, và theo thánh Luca thì được gọi là Giuđa. Thánh Gioan cũng gọi ông là Giuđa trong Bữa Tiệc ly: “Ông Giuđa, không phải Giuđa Ítcariốt, nói với Đức Giêsu: ‘Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?’” (Ga 14,22). Đây là câu hỏi mà có lẽ một số tông đồ khác cũng quan tâm, họ vẫn xem Đức Giêsu có thể trở thành một vị vua trần thế, và chưa hiểu tại sao Đức Giêsu lại đến thế gian hay điều gì sẽ xảy đến với Ngài sau đó. Đức Giêsu trả lời rằng Ngài sẽ tỏ mình ra cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ các giới răn “... Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
Mátthia được chọn để thay thế Giuđa, kẻ phản bội (Cv 1,15–26). Trong khi các tông đồ ở Giêrusalem chờ đợi Thánh Thần; Phêrô trong tư cách lãnh đạo có thể đã chọn được người thay thế, nhưng ngài để cho các tông đồ lựa chọn. Phêrô đưa ra chỉ dẫn rằng bất cứ ai được chọn phải thuộc nhóm những người đã đi theo Đức Kitô kể từ khi Ngài chịu phép rửa và phải làm chứng rằng Ngài đã phục sinh. Có hai người được đề cử là Basaba và Mátthia; cuối cùng Mátthia được chọn qua việc rút thăm. Từ đây, Tân ước không nói gì thêm về Mátthia.
Giuđa Ítcariốt
Giống như một số tông đồ khác, chúng ta không biết Giuđa được chọn khi nào. Ông là người giữ túi tiền của nhóm, phụ trách về tiền bạc, có lẽ đã nỗ lực làm việc hiệu quả. Giuđa có mặt tại Bêtania khi Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất, quý giá mà xức cho Đức Giêsu và ông than phiền việc lãng phí này, tuy nhiên ông phàn nàn “không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga 12,6). Đức Giêsu quở trách những lời nhận xét của Giuđa, và ngay sau đó Giuđa đã thông đồng với các thượng tế mà phản bội Đức Giêsu để lấy 30 đồng bạc.
Trong Bữa Tiệc ly, Đức Giêsu biết dự tính của Giuđa, và sau khi rửa chân cho các tông đồ, kể cả Giuđa, Ngài tiết lộ có người sẽ phản bội và xác định đó là Giuđa, khi nói: “Anh làm gì thì làm mau đi!” (Ga 13,27). Ngay trong đêm hôm đó, Giuđa dẫn một toán quân đến và đã chỉ điểm Đức Giêsu là thủ lĩnh của nhóm. Sau khi Đức Giêsu bị bắt, Giuđa cố trả lại tiền nhưng người Do Thái từ chối, nên ông đã “ra đi thắt cổ” (Mt 27,5).
Thánh Maria Mađalêna – Tông đồ của các Tông đồ
Vào tháng 7 năm 2016, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nâng ngày lễ nhớ buộc hàng năm của thánh nữ Maria Mađalêna lên bậc lễ kính. Ngoài Đức Mẹ, ngài là người phụ nữ duy nhất được Giáo hội tôn kính như thế. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã ra huấn thị nói rằng: “Thật là hợp lý để ngày lễ thánh Mađalêna có cùng bậc lễ với các thánh tông đồ trong lịch phụng vụ chung của Rôma, cũng như để nhấn mạnh sứ vụ đặc biệt của người phụ nữ này như một tấm gương và hình mẫu cho các phụ nữ trong Giáo hội”.
Như các tông đồ, Maria Mađalêna thể hiện lòng yêu mến và dấn thân theo Chúa. Bà và những phụ nữ khác đi khắp Galilê với Đức Giêsu và “lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,3). Bà theo Đức Giêsu lên Giêrusalem, và đã hiện diện lúc Chúa chịu đóng đinh, cùng với Gioan, chứ không bỏ trốn như các tông đồ khác. Vào buổi sáng phục sinh đầu tiên Tin mừng thuật lại là Đức Giêsu đã gặp bà trước tiên. Ngài sai bà đến với anh em mình là các tông đồ và nói với họ “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18). Vì vậy, bà được gọi là Tông đồ của các Tông đồ.