DẪN NHẬP
“Tình yêu Đức Ki-tô quy tụ chúng ta nên một”
1. Tình yêu Đức Ki-tô đã quy tụ một số lớn các môn đệ nên một, để như Người và nhờ Người, trong Chúa Thánh Thần, theo dòng thời gian, họ có thể đáp lại tình yêu của Chúa Cha, bằng cách yêu mến Người ”hết lòng, hết dạ, hết sức” (x. Đnl 6,5) và yêu anh em ”như chính mình” (x. Mt 22,39).
Trong số các môn đệ này, những người đã cùng nhau quy tụ thành các cộng đoàn tu trì, những người nam và người nữ ”thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9) đã và vẫn còn là biểu hiện hùng hồn của tình yêu cao siêu và vô biên này.
Được sinh ra ”không do ý muốn của xác thịt”, không bởi sự hấp dẫn cá nhân, cũng không bởi động lực con người, nhưng bởi ”Thiên Chúa” (Ga 1,13), do lời mời gọi và sự lôi cuốn siêu nhiên, các cộng đoàn tu trì là dấu chỉ sống động về sự tối thượng của tình yêu Thiên Chúa, Đấng làm nên những điều kỳ diệu, và về tình yêu đối với Thiên Chúa và với anh chị em mình như đã được Đức Giê-su Ki-tô biểu lộ và thực hiện.
Vì tầm quan trọng của các cộng đoàn tu trì đối với đời sống và sự thánh thiện của Giáo Hội, nên cần phải tìm hiểu kinh nghiệm sống của các cộng đoàn tu trì hôm nay, dù là đan tu và chiêm niệm, hay dấn thân hoạt động tông đồ, mỗi cộng đoàn theo sắc thái riêng. Tất cả các vấn đề được đề cập ở đây, liên quan đến cộng đoàn dòng tu cũng được áp dụng cho các cộng đoàn trong các tu đoàn tong đồ, tuy vẫn tôn trọng đặc tính và pháp chế riêng của họ.
a. Chủ đề của văn kiện liên quan đến sự kiện này: đặc điểm mà đời sống huynh đệ cộng đoàn thể hiện nơi một số quốc gia hôm nay có nhiều biến chuyển sánh với cách thức xưa kia. Những biến chuyển này, cũng như những hy vọng và thất vọng kèm theo, và vẫn đang tiếp tục, cần được suy tư dưới ánh sáng Công Đồng Va-ti-ca-nô II. Những biến chuyển đó đã dẫn đến những hệ quả tích cực và cả những hệ quả cần xem xét lại. Chúng làm sáng tỏ nhiều giá trị Tin Mừng, do đó đem lại cho cộng đoàn tu trì một sinh lực mới, nhưng cũng làm nảy sinh những vấn nạn khi làm lu mờ một số yếu tố cơ bản của chính đời sống huynh đệ trong cộng đoàn. Ở một vài nơi, dưới cái nhìn của nam nữ tu sĩ, cộng đoàn tu trì dường như đã đánh mất tầm quan trọng của mình và có lẽ không còn là lý tưởng phải theo đuổi nữa.
Với đặc tính thanh thản và cần mẫn của những người tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa, nhiều cộng đoàn đã tìm cách lượng định sự thay đổi này để có thể đáp trả tốt hơn ơn gọi riêng của mình giữa Dân Thiên Chúa.
b. Có nhiều yếu tố quyết định những thay đổi mà chúng ta đã chứng kiến:
“Không ngừng trở về nguồn mạch của toàn thể đời sống Ki-tô hữu và hứng khởi nguyên thuỷ của hội dòng” (1). Cuộc gặp gỡ sâu xa và đầy đủ hơn với Tin Mừng và với bước đột phá của đoàn sủng sáng lập, đã là sức thúc đẩy mãnh liệt để tìm kiếm một tinh thần đích thực làm sinh động tình huynh đệ, những cơ cấu và tập quán phải thể hiện tình huynh đệ ấy cách thích đáng. Ở đâu việc gặp gỡ những nguồn mạch và hứng khởi nguyên thuỷ này có phần phiến diện hoặc yếu kém, thì ở đó đời sống huynh đệ gặp nguy hiểm và sa sút.
-- Tuy nhiên, tiến trình này đã xảy ra trong bối cảnh những phát triển khác tổng quát hơn, vốn là một bối cảnh của cuộc sống, và đời tu không thể tránh khỏi những hậu quả của nó (2).
Đời tu là một thành phần sống động của Giáo Hội và các tu sĩ sống giữa trần thế. Các giá trị và phản giá trị làm xáo trộn một thời đại hay một hệ thống văn hoá, và những cơ cấu xã hội diễn tả chúng, đều tác động đến mọi người, kể cả Giáo Hội và các cộng đoàn tu trì. Các cộng đoàn tu trì hoặc làm nên men Tin Mừng trong lòng xã hội, loan báo Tin Vui giữa thế gian, công bố thành Giê-ru-sa-lem trên trời ở đây và lúc này, hoặc ngã quỵ do suy thoái nhanh hay chậm, chỉ vì đã chạy theo trần thế. Vì vậy, suy tư và những đề xuất mới về ”đời sống huynh đệ cộng đoàn” phải lưu ý đến bối cảnh của cuộc sống này.
-- Những tiến bộ trong Giáo Hội cũng ghi dấu sâu đậm nơi các cộng đoàn tu trì. Công Đồng Va-ti-ca-nô II, một biến cố của ân sủng, một biểu hiện vĩ đại nhất nhằm hướng dẫn mục vụ Giáo Hội trong thế kỷ này, đã có những ảnh hưởng quyết định về đời tu, không những chỉ qua sắc lệnh Đức Ái trọn hảo bàn về đời tu, mà còn qua Giáo Hội học của Công Đồng và từng văn kiện của Công Đồng.
Vì những lý do trên, trước khi trực tiếp đề cập đến chủ đề, văn kiện này bắt đầu cái nhìn từ bối cảnh bao quát trên những thay đổi trong các môi trường có ảnh hưởng trực tiếp hơn đến phẩm chất đời sống huynh đệ, và những lối sống trong các cộng đoàn tu trì khác nhau.
Sự tiến triển thần học
2. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã đóng góp rất nhiều trong việc đánh giá lại ”Đời sống huynh đệ cộng đoàn” và trong việc canh tân quan điểm về cộng đoàn tu trì.
Chính sự phát triển Giáo Hội học đã ảnh hưởng đến sự tiến triển trong hiểu biết của chúng ta về cộng đoàn tu trì hơn bất cứ một yếu tố nào khác. Va-ti-ca-nô II xác quyết rằng không thể nào chối cãi được là đời tu thuộc về sự sống và sự thánh thiện của Giáo Hội, đồng thời Công Đồng đặt đời tu vào vị trí trung tâm của mầu nhiệm hiệp thông và thánh thiện của Giáo Hội (3).
Như thế, cộng đoàn tu trì tham dự vào hình ảnh về Giáo Hội được đổi mới và đào sâu. Từ đó dẫn đến một số kết quả :
a. Từ Giáo Hội - Mầu nhiệm đến chiều kích mầu nhiệm của cộng đoàn tu trì
Cộng đoàn tu trì không đơn thuần là một tập hợp các Ki-tô hữu để tìm kiếm sự hoàn thiện cá nhân. Sâu xa hơn nhiều, đó là sự thông phần và là chứng tá đặc biệt của Giáo Hội mầu nhiệm, bởi vì nó là biểu hiện sống động và là sự hoàn thành ưu việt của ”sự hiệp thông” đặc biệt, koinonia, của Ba Ngôi cao cả ; Chúa Cha muốn những người nam và người nữ được dự phần vào sự sống thông hiệp đó, trong Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
b. Từ Giáo Hội-hiệp thông đến chiều kích hiệp thông huynh đệ của cộng đoàn tu trì
Cộng đoàn tu trì, trong cơ cấu, trong những động lực, trong những giá trị riêng biệt của mình, làm cho hồng ân tình huynh đệ mà Đức Ki-tô đã ban tặng cho toàn thể Hội Thánh trở nên hữu hình cách công khai và không ngừng được mọi người nhận biết. Chính vì lý do này, cộng đoàn tu trì có bổn phận và sứ vụ hiệp thông huynh đệ sâu sắc, dấu chỉ và sự khích lệ cho tất cả các Ki-tô hữu (4).
c. Từ Giáo Hội được linh hoạt bởi các đoàn sủng đến chiều kích đoàn sủng của cộng đoàn tu trì
Cộng đoàn tu trì là một cơ thể sống động của tình hiệp thông huynh đệ, được mời gọi sống trong sự hoạt động của đoàn sủng nguyên thuỷ. Cộng đoàn tu trì là một phần trong mối hiệp thông hữu cơ của toàn thể Giáo Hội, không ngừng được Chúa Thánh Thần làm cho phong phú với nhiều tác vụ và đoàn sủng.
Những người gia nhập các cộng đoàn như thế phải có ơn gọi đặc biệt. Trong thực tế, các phần tử của một cộng đoàn tu trì được liên kết với nhau do một ơn gọi chung của Thiên Chúa phù hợp với đoàn sủng nguyên thuỷ, do việc cùng được Giáo Hội thánh hiến cách đặc biệt, do việc chung nhau đáp lại ơn gọi nhờ tham dự vào ”kinh nghiệm của Thánh Thần” mà đấng sáng lập đã sống và trao lại, cũng như trong sứ vụ của đấng sáng lập trong lòng Giáo Hội (5).
Giáo Hội cũng mong muốn tiếp nhận với lòng biết ơn những đoàn sủng ”tầm thường nhất và được phú ban rộng rãi” (6) mà Thiên Chúa đã phân phát nơi các phần tử của Giáo Hội vì lợi ích của toàn Thân Thể. Cộng đoàn tu trì hiện hữu vì Giáo Hội, biểu lộ Giáo Hội và làm phong phú Giáo Hội (7), giúp cho Giáo Hội thực hiện tốt hơn sứ mệnh của mình.
d. Từ Giáo Hội xét như là bí tích hiệp nhất đến chiều kích tông đồ của cộng đoàn tu trì
Mục đích việc tông đồ là đưa nhân loại trở lại hiệp nhất với Thiên Chúa và hiệp nhất với nhau qua đức ái thần linh. Đời sống huynh đệ cộng đoàn, một biểu lộ của sự hiệp nhất hình thành bởi tình yêu Thiên Chúa, ngoài việc là một chứng từ cốt yếu của việc loan báo Phúc Âm, còn có ý nghĩa lớn lao đối với hoạt động tông đồ cũng như đối với mục đích tối hậu của nó. Chính từ điểm này mà sự hiệp thông huynh đệ của cộng đoàn tu trì rút ra được sức mạnh như là dấu chỉ và phương tiện. Thực vậy, sự hiệp thông huynh đệ vừa là khởi điểm vừa là đích điểm của sứ vụ tông đồ.
Từ thời Công Đồng, huấn quyền đã đào sâu và làm phong phú thêm quan điểm mới về cộng đoàn tu trì với những cái nhìn trẻ trung (8).
Sự tiến triển trong Giáo luật
3. Bộ giáo luật (1983) phân loại và định nghĩa những xác quyết của Công Đồng về đời sống chung.
Khi Giáo luật nói tới ”đời sống chung”, ta cần phải phân biệt rõ ràng hai khía cạnh.
Trong khi Bộ giáo luật 1917 (9) dường như cho ta cảm tưởng là tập trung vào những yếu tố bên ngoài và một lối sống đồng nhất, thì Va-ti-ca-nô II (10) và Bộ giáo luật mới (11) rõ rệt nhấn mạnh đến chiều kích thiêng liêng và đến mối dây huynh đệ, là yếu tố hiệp nhất mọi phần tử trong đức ái. Bộ giáo luật mới đã tổng hợp cả hai yếu tố này khi nói “sống chung đời huynh đệ” (12).
Như vậy, trong đời sống cộng đoàn, có thể phân biệt hai yếu tố liên kết và hiệp nhất các phần tử :
yếu tố thứ nhất, có tính cách thiêng liêng hơn: ”Tình huynh đệ” hay ”sự hiệp thông huynh đệ”, phát xuất từ tâm hồn, do đức ái thúc đẩy. Tình huynh đệ này nhấn mạnh đến ”sống hiệp thông” và những mối tương quan cá vị (13) ;
yếu tố thứ hai, có tính cách hữu hình hơn: ”Sống chung” hay ”đời sống cộng đoàn”, hệ tại ”sống trong một nhà dòng đã được thiết lập theo luật pháp” và ”đưa đến một đời sống chung” nhờ trung thành với chính các nguyên tắc, tham dự vào các hoạt động chung, và cộng tác vào các việc phục vụ chung (14).
Tất cả những điều này được thực hiện ”theo lối sống riêng của họ” (15) tại các cộng đoàn khác nhau, theo đoàn sủng và luật riêng của hội dòng (16). Từ đó phát sinh tầm quan trọng của luật riêng ; luật riêng phải áp dụng vào đời sống cộng đoàn những gì thuộc về gia sản của mỗi hội dòng và như phương tiện để thực hiện điều đó (17).
“Đời sống huynh đệ” hiển nhiên không phải tự động có được bằng việc tuân giữ các nguyên tắc chi phối đời sống chung, nhưng rõ ràng đời sống chung cổ võ cho đời sống huynh đệ rất nhiều.
Sự tiến triển trong xã hội
4. Xã hội tiến hoá không ngừng, và các tu sĩ nam nữ tuy không thuộc về trần thế, nhưng sống trong trần thế và chịu ảnh hưởng của trần thế.
Ở đây chúng ta sẽ đề cập đến một vài khía cạnh đã tác động trực tiếp đến đời sống tu trì nói chung và cộng đoàn tu trì nói riêng.
a. Những phong trào giải phóng chính trị và xã hội trong thế giới thứ ba và tiến trình đẩy mạnh kỹ nghệ hoá đã đưa đến những thay đổi lớn về phương diện xã hội, nhấn mạnh đặc biệt đến ”sự phát triển các dân tộc” và, trong những thập niên gần đây, nhấn mạnh đến những tình trạng nghèo khó và khốn cùng. Các Giáo Hội địa phương đã phản ứng mạnh mẽ khi đối đầu với những phong trào phát triển này.
Trên hết, tại châu Mỹ La-tinh, qua các hội nghị của Hội Đồng Giám Mục châu Mỹ La-tinh ở Medellin, Puebla, và Santo Domingo, ”sự chọn lựa theo Tin Mừng và ưu tiên đứng về phía người nghèo” (18) được đưa lên hàng đầu, và được nhấn mạnh trong những dấn thân xã hội.
Các cộng đoàn tu trì chịu ảnh hưởng sâu xa bởi điều đó ; nhiều cộng đoàn đi đến chỗ suy nghĩ lại về sự hiện diện của mình trong xã hội, với ý muốn trực tiếp phục vụ người nghèo, thậm chí đôi khi hoà nhập với người nghèo.
Cảnh khốn khổ gia tăng tràn lan ở ngoại ô các thành phố lớn cùng với sự bần cùng hoá các vùng nông thôn đã thôi thúc ”việc xác định lại vị trí” của một số lớn các cộng đoàn tu trì hướng đến những vùng nghèo khổ hơn này.
Khắp nơi đều gặp phải thách đố về hội nhập văn hoá. Các nền văn hoá, các truyền thống và não trạng, tất cả cùng tác động đến lối sống huynh đệ trong cộng đoàn tu trì.
Hơn nữa, trong những năm gần đây, phong trào di dân với quy mô lớn đã làm phát sinh vấn đề nhiều nền văn hoá khác nhau cùng tồn tại, và vấn đề phản ứng chống lại sự phân biệt chủng tộc. Tất cả những sự kiện trên cũng ảnh hưởng đến những cộng đoàn tu trì đa văn hoá và đa chủng tộc ngày càng trở nên phổ biến.
b. Những đòi hỏi về tự do cá nhân và nhân quyền là cốt lõi của cao trào dân chủ hoá, có lợi cho sự phát triển kinh tế cũng như cho sự phát triển xã hội dân sự.
Vào giai đoạn tiếp liền sau Công Đồng, tiến trình này tăng nhanh, đặc biệt ở Tây phương, và được đánh dấu bằng những cuộc hội họp thảo luận về mọi vấn đề và bằng thái độ bãi bỏ quyền bính.
Giáo Hội và đời tu không thể tránh khỏi phải đặt lại vấn đề quyền bính, với những hậu quả đáng kể đối với chính đời sống cộng đoàn.
Sự nhấn mạnh một chiều và thái quá đến tự do đã góp phần làm lan tràn khắp Tây phương một nền văn hoá cá nhân chủ nghĩa, do đó làm suy yếu lý tưởng đời sống chung và sự dấn thân trong các dự phóng của cộng đoàn.
Chúng ta cũng nhận thấy những phản ứng khác, cũng có tính cách một chiều, như lẩn trốn vào những hình thức chuyên quyền gợi lên sự an toàn, dựa trên lòng tin mù quáng nơi người lãnh đạo biết cách trấn an.
c. Sự thăng tiến nữ giới, mà theo Đức Giáo Hoàng Gio-an XXIII, là một trong những dấu chỉ của thời đại chúng ta, đã tác động nhiều đến đời sống các cộng đoàn Ki-tô hữu ở nhiều quốc gia khác nhau (19). Cho dù ở một vài nơi, đời tu bị ảnh hưởng sâu xa bởi phong trào nữ quyền cực đoan, nhưng hầu hết các cộng đoàn tu trì nữ giới đều tích cực tìm kiếm những hình thức sống chung xét thấy hợp lý hơn đối với nhận thức về căn tính, phẩm giá, và vai trò của người nữ trong xã hội, trong Giáo Hội và trong đời tu.
d. Sự bùng nổ thông tin, bắt đầu từ những năm 1960, đã ảnh hưởng đáng kể và đôi khi bi thảm, đến mức độ tổng quát về thông tin, đến nhận thức về trách nhiệm xã hội và tông đồ, đến tính di động tông đồ và phẩm chất của những mối tương quan nội tại, đó là chưa kể đến phong cách sống đặc biệt và bầu khí trầm lặng phải là đặc trưng của cộng đoàn tu trì.
đ. Chủ nghĩa hưởng thụ và chủ nghĩa khoái lạc, cùng với sự suy yếu quan điểm đức tin, là đặc điểm của chủ nghĩa tục hoá, đã ảnh hưởng đến các cộng đoàn tu trì ở nhiều nơi. Những nhân tố này đã thử thách ác liệt khả năng ”chống lại sự dữ” của các cộng đoàn tu trì, nhưng đồng thời cũng phát sinh những phong cách sống mới nơi đời sống cá nhân và cộng đoàn, phong cách đó là một chứng tá Tin Mừng rõ rệt cho thế giới chúng ta.
Tất cả những điều này đã là một thách đố, là lời mời gọi sống các lời khuyên Phúc Âm mãnh liệt hơn, đồng thời nâng đỡ chứng tá của cộng đồng Ki-tô hữu.
Những biến chuyển trong đời tu
5. Trong những năm gần đây, nhiều biến chuyển đã ảnh hưởng sâu đậm đến các cộng đoàn tu trì.
a. Một bối cảnh mới trong cộng đoàn tu trì. Tại nhiều nước, các chương trình quốc gia được triển khai ở một số lãnh vực vốn là lãnh vực hoạt động của các tu sĩ - như công tác xã hội, giáo dục, y tế - cùng với sự giảm sút ơn gọi, đã đưa đến tình trạng giảm sút sự hiện diện của các tu sĩ trong các công việc đã từng là điển hình của các hội dòng hoạt động tông đồ.
Như vậy, các cộng đoàn lớn đang thu gọn phạm vi hoạt động cụ thể vốn là nét đặc trưng của các hội dòng từ nhiều năm nay.
Thêm vào đó, ở một vài nơi, các cộng đoàn nhỏ được ưa chuộng hơn, nơi đó tập hợp các tu sĩ làm những công việc không thuộc về hội dòng, mặc dù các hoạt động này thường phù hợp với đoàn sủng của hội dòng. Điều này đã tác động một cách có ý nghĩa đến lối sống chung và đòi hỏi thay đổi những nề nếp trong cộng đoàn.
Đôi khi, khát vọng chân thành muốn phục vụ Hội Thánh và gắn bó với các công việc của hội dòng, cộng thêm với những nhu cầu cấp bách của Giáo Hội địa phương, có thể làm cho các tu sĩ đảm nhận quá nhiều công việc, do đó họ chỉ dành một ít thời gian cho đời sống chung.
b. Sự gia tăng những đòi hỏi giúp đáp ứng những nhu cầu khẩn thiết hơn (như người nghèo, người nghiện ngập, người tị nạn, người bên lề xã hội, người tàn tật và bệnh nhân các loại) đã khơi dậy trong đời tu sự đáp trả và hiến thân một cách đáng khâm phục và đáng ca tụng.
Tuy nhiên, điều này hiển nhiên đưa đến sự cần thiết phải thay đổi một số hình thức truyền thống của cộng đoàn tu trì, mà một số người cho là không thích hợp để đối phó với hoàn cảnh mới.
c. Cách suy nghĩ và lối sống của các tu sĩ làm việc trong môi trường bị tục hoá, đặc biệt khi tác vụ được hiểu đơn thuần là một nghề, một công tác hơn là đang thi hành sứ vụ truyền bá Phúc Âm, đôi khi đã làm lu mờ thực tại thánh hiến và chiều kích siêu nhiên của đời tu, đến nỗi đời sống huynh đệ cộng đoàn đối với một số người đã trở thành chướng ngại vật cho hoạt động tông đồ, hoặc chỉ là một công cụ có tính cách chức năng.
d. Một quan niệm mới về con người thành hình trong giai đoạn tiếp liền sau Công Đồng, nhấn mạnh đến giá trị của ngôi vị và các sáng kiến cá nhân. Điều này trực tiếp dẫn đến một cảm nhận sâu sắc về cộng đoàn hiểu như đời sống huynh đệ được xây dựng trên phẩm chất của những mối tương quan cá nhân hơn là trên những khía cạnh hình thức của việc tuân giữ kỷ luật.
Đó đây, những điểm nhấn mạnh này trở thành triệt để (phát sinh khuynh hướng đối lập giữa cá nhân chủ nghĩa với cộng đồng chủ nghĩa) đôi khi không đưa đến sự quân bình thoả đáng.
đ. Các cơ cấu lãnh đạo mới xuất hiện dựa vào những hiến pháp đã được tu chính, đòi hỏi sự tham gia nhiều hơn của các nam nữ tu sĩ. Từ đó xuất hiện những cách thế khác nhau khi tiếp cận các vấn đề, qua sự đối thoại cộng đoàn, đồng trách nhiệm và hỗ trợ lẫn nhau. Tất cả các thành viên đều quan tâm đến các vấn đề của cộng đoàn. Điều này ảnh hưởng lớn đến những mối tương giao cá nhân, và ngược lại, cũng ảnh hưởng đến cách quan niệm về quyền bính. Không ít trường hợp, quyền bính gặp phải những khó khăn thực tế khi tìm cho mình vị trí đúng đắn trong bối cảnh mới.
Những đổi thay và xu hướng nói trên kết hợp với nhau đã ảnh hưởng sâu xa đến đặc tính của các cộng đoàn tu trì không chỉ trong một hình thức sâu sắc, mà còn ở nhiều hình thức khác biệt.
Sự khác nhau đó, đôi khi khá rõ, như ta có thể hiểu dễ dàng, phụ thuộc vào sự khác biệt của các nền văn hoá và địa dư, vào các cộng đoàn nam hay nữ, vào các dạng đời tu và hội dòng, vào các hoạt động khác nhau và mức độ dấn thân để duyệt lại và hiện tại hoá đoàn sủng của đấng sáng lập, vào những đường hướng khác nhau để tồn tại trước xã hội và Giáo Hội, vào cách thức đón nhận các giá trị mà Công Đồng đưa ra, vào những truyền thống và hình thức khác nhau của đời sống chung, vào các dạng thể hiện quyền bính và cổ võ sự canh tân việc thường huấn. Những hoàn cảnh khó khăn trên đây chỉ có một phần chung cho tất cả ; đúng hơn, chúng có xu hướng khác biệt tuỳ theo cộng đoàn.
Các chủ đích của văn kiện
6. Dưới ánh sáng của những tình huống mới, mục đích trước hết của văn kiện này nhằm ủng hộ những nỗ lực mà nhiều cộng đoàn tu sĩ nam nữ đã đạt được, hầu cải thiện phẩm chất đời sống huynh đệ. Điều này được thực hiện nhờ trình bày một số tiêu chuẩn nhận thức, dựa trên quan điểm canh tân theo Tin Mừng đích thực.
Văn kiện này cũng muốn đưa ra những lý do để những người đã tự tách mình ra khỏi lý tưởng cộng đoàn suy nghĩ, giúp họ nghiêm chỉnh xem xét lại nhu cầu sống chung huynh đệ đối với những người đã tận hiến cho Thiên Chúa trong một hội dòng hay một tu đoàn tông đồ.
7. Trong những viễn tượng trên, văn kiện có nội dung như sau:
a. Cộng đoàn tu trì như là một hồng ân: trước khi là một dự phóng của con người, đời sống huynh đệ là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa và Người muốn chia sẻ đời sống hiệp thông của Người.
b. Cộng đoàn tu trì là nơi chúng ta trở nên anh chị em với nhau: những con đường thích hợp nhất để cộng đoàn tu trì xây nên tình huynh đệ Ki-tô giáo.
c. Cộng đoàn tu trì như nơi và chủ thể của sứ vụ: những chọn lựa đặc biệt mà một cộng đoàn được mời gọi thực hiện trong các môi trường khác nhau, và những tiêu chuẩn để phân định.
Để đi vào mầu nhiệm hiệp thông và huynh đệ, và trước khi thực hiện sự phân định khó khăn nhưng cần thiết cho công cuộc canh tân chứng tá Tin Mừng của cộng đoàn, chúng ta phải khiêm tốn cầu khẩn Chúa Thánh Thần để Người hoàn tất điều mà chỉ một mình Người có thể làm: ”Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt Thần Khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá ra khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi” (Ed 36,26-28). CHƯƠNG I: HỒNG ÂN HIỆP THÔNG VÀ HỒNG ÂN CỘNG ĐOÀN
8. Trước khi là một kiến trúc của con người, cộng đoàn tu trì đã là một hồng ân của Chúa Thánh Thần. Chính là do tình yêu Thiên Chúa, được đổ tràn đầy tâm hồn chúng ta nhờ Thần Khí, cộng đoàn tu trì khởi đầu và được xây dựng thành một gia đình thực sự, trong đó mọi người quy tụ lại với nhau nhân danh Chúa (20).
Vì thế, không thể nào hiểu được cộng đoàn tu trì nếu chúng ta không bắt đầu từ bản chất của cộng đoàn như là một ân huệ trên cao ban xuống, như một mầu nhiệm, bắt nguồn từ chính trọng tâm mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chí thánh và là Đấng thánh hoá, Đấng hằng mong muốn cộng đoàn tu trì trở nên thành phần của mầu nhiệm Giáo Hội nhằm phục vụ đời sống con người.
Giáo Hội xét như là sự hiệp thông
9. Khi tạo dựng người nam và người nữ theo hình ảnh và giống như Người, Thiên Chúa đã sáng tạo họ để họ sống hiệp thông. Thiên Chúa, Đấng sáng tạo, đã mạc khải chính Người là Tình Yêu, là Ba Ngôi, là Sự Hiệp Thông, đã mời gọi họ tham dự vào mối tương quan thâm sâu với chính Người và vào mối hiệp thông liên vị trong tình huynh đệ đại đồng giữa người với người (21).
Đây là ơn gọi cao nhất của chúng ta: hiệp thông với Thiên Chúa và với anh chị em.
Tội lỗi đã làm tổn thương chương trình của Thiên Chúa, đã chia cắt mọi thứ tương quan ; giữa loài người với Thiên Chúa, giữa người nam với người nữ, giữa anh em với chị em, giữa các dân tộc, giữa loài người với các thụ tạo khác.
Vì tình yêu cao cả, Chúa Cha đã sai Con của Người là A-đam mới đến để khôi phục lại toàn bộ công trình sáng tạo và đưa chương trình đó đến chỗ thống nhất hoàn toàn. Khi đến giữa chúng ta, Người bắt đầu thiết lập một dân mới của Thiên Chúa, kêu gọi các Tông Đồ và các môn đệ, những người nam và người nữ đến với Người - đó là một hình ảnh sống động cho thấy một nhân loại được quy tụ lại với nhau trong sự hiệp nhất. Người loan báo cho họ biết tình huynh đệ đại đồng trong Chúa Cha, Đấng đã làm cho chúng ta trở thành người nghĩa thiết, thành con cái của Người và thành anh chị em với nhau. Như thế, Người đã dạy chúng ta sống bình đẳng trong tình huynh đệ và hoà giải trong tha thứ. Người đảo lộn những mối tương quan của quyền lực và thống trị bằng cách chính Người nêu gương phục vụ và chọn chỗ rốt hết. Trong bữa Tiệc Ly, Người đã trao cho họ một giới răn mới là yêu thương nhau: ”Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu mến anh em, anh em cũng hãy yêu mến nhau” (Ga 13,14 ; x. 15,12). Người đã thiết lập bí tích Thánh Thể, để khi cho ta được chia sẻ cùng một bánh và một chén, bí tích này nuôi dưỡng tình yêu của chúng ta đối với nhau. Rồi Người hướng về Chúa Cha mà cầu xin - như là tổng hợp mọi ước nguyện - cho tất cả họ được hiệp nhất theo khuôn mẫu sự hiệp nhất của Ba Ngôi: ”Để hết thảy họ nên một cũng như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha, ngõ hầu họ ở trong chúng ta và thế gian tin là Cha đã sai con” (x. Ga 17,21).
Rồi khi vâng theo thánh ý Chúa Cha, Người đã hoàn tất sự hiệp nhất đó trong mầu nhiệm Vượt Qua, sự hiệp nhất mà Người đã dạy các môn đệ phải sống và là sự hiệp nhất mà Người đã cầu xin Chúa Cha. Nhờ cái chết trên thập giá, Người đã phá đổ bức tường ngăn cách các dân tộc, hoà giải tất cả chúng ta nên một (x. Ep 2,14-16). Nhờ đó, Người dạy chúng ta biết rằng hiệp thông và hiệp nhất là hoa trái do việc chia sẻ mầu nhiệm sự chết của Người.
Việc Chúa Thánh Thần hiện xuống, hồng ân đầu tiên ban cho các tín hữu, đã đem lại sự hiệp nhất mà Đức Ki-tô mong muốn. Sau khi đã xuống tràn đầy các môn đệ đang tụ họp cùng với Đức Ma-ri-a trong nhà Tiệc Ly, Thánh Thần đã ban cho Giáo Hội một dấu hữu hình, mà ngay từ lúc đầu đã được coi là đặc điểm của tình huynh đệ và hiệp thông trong sự hiệp nhất một trái tim và một linh hồn (x. Cv 4,32).
Sự hiệp thông này là mối dây yêu thương liên kết mọi thành phần trong cùng một Thân Thể Đức Ki-tô với nhau, và nối kết Thân Thể với Đầu. Cũng sự hiện diện ban sự sống của Chúa Thánh Thần (22) làm nên sự liên kết hữu cơ trong Đức Ki-tô. Người hiệp nhất Giáo Hội trong sự hiệp thông và tác vụ, phối hợp và hướng dẫn Giáo Hội nhờ các ơn huệ phẩm trật và đoàn sủng bổ túc lẫn nhau và làm cho Giáo Hội nên xinh đẹp nhờ sinh nhiều hoa trái (23).
Trong cuộc lữ hành trần thế này, Giáo Hội duy nhất và thánh thiện không ngừng nhận thức những căng thẳng đôi khi đau thương để hướng tới sự hiệp nhất hữu hiệu. Suốt dòng lịch sử, Giáo Hội càng ngày càng ý thức rằng mình là Dân và là Gia Đình của Thiên Chúa, là Thân Thể Đức Ki-tô, Đền Thờ Chúa Thánh Thần, là Bí tích của sự hiệp nhất sâu xa nơi nhân loại, là sự hiệp thông, hình ảnh của Chúa Ba Ngôi. Có lẽ hơn bao giờ hết, Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã làm nổi bật chiều kích mầu nhiệm và ”hiệp thông” này của Giáo Hội.
Cộng đoàn tu trì diễn tả sự hiệp thông trong Giáo Hội
10. Ngay từ ban đầu, đời sống thánh hiến đã nuôi dưỡng bản chất thâm sâu này của Ki-tô giáo. Thực vậy, cộng đoàn tu trì cảm thấy chính mình đang tiếp nối nhóm người đã theo Đức Giê-su. Người đã gọi đích danh từng người một để họ sống hiệp thông với chính Người và với các môn đệ khác, để chia sẻ cuộc sống và thân phận của người (x. Mc 3,13-15), và qua đó, cộng đoàn tu trì trở thành dấu chỉ sự sống, sự hiệp thông mà Người đã khởi đầu. Các cộng đoàn đan tu đầu tiên đã coi cộng đoàn các môn đệ theo Đức Ki-tô và cộng đoàn Giê-ru-sa-lem là lý tưởng sống của họ. Như Giáo Hội thời sơ khai chỉ có một trái tim và một tâm hồn, cũng vậy, các đan sĩ sống với nhau dưới sự hướng dẫn tinh thần của đan viện phụ, quyết tâm sống hiệp thông triệt để cả về tinh thần lẫn vật chất, và sống sự hiệp nhất mà chính Đức Ki-tô đã thiết lập. Sự hiệp nhất này có khuôn mẫu đầu tiên và động lực là đời sống hiệp nhất của các ngôi vị trong Ba Ngôi chí thánh.
Vào những thế kỷ tiếp theo, nhiều hình thức cộng đoàn đã nảy sinh do tác động đoàn sủng của Chúa Thánh Thần. Người là Đấng dò thấu chiều sâu lòng dạ con người, đã tác động để làm thoả mãn các nhu cầu của con người. Người đã làm xuất hiện những người nam nữ, để nhờ ánh sáng Tin Mừng soi dẫn và bén nhạy với những dấu chỉ của thời đại, họ khai sinh ra những gia đình dòng tu mới, và từ đó, khai sinh ra nhiều phương thế mới để sống sự hiệp thông duy nhất trong tính đa dạng của các tác vụ và cộng đoàn (24).
Chúng ta không thể nói về cộng đoàn tu trì một cách như nhau. Lịch sử đời sống thánh hiến làm chứng rằng có nhiều cách khác nhau để sống sự hiệp thông tuỳ theo bản chất của mỗi hội dòng. Nhờ đó, ngày nay chúng ta có thể ngưỡng mộ ”sự khác biệt kỳ diệu” của các gia đình dòng tu đã làm phong phú cho Giáo Hội, và trang bị Giáo Hội hầu thi hành mọi việc thiện (25) ; và từ đó chúng ta cũng nhận thấy sự khác biệt trong các hình thức sống cộng đoàn.
Tuy nhiên, trong những hình thức khác nhau, đời sống huynh đệ cộng đoàn luôn luôn là cách diễn tả triệt để tinh thần huynh đệ phổ quát, là tinh thần hiệp nhất tất cả các Ki-tô hữu. Cộng đoàn tu trì là một biểu hiệu hữu hình của sự hiệp thông, vốn là nền móng của Giáo Hội và đồng thời là lời tiên báo sự hợp nhất mà Giáo Hội nhắm tới như cùng đích của mình. Vì vậy, như những nhà chuyên môn về sự hiệp thông, được kêu gọi trở nên một cộng đoàn Giáo Hội ở trong Giáo Hội và trong thế giới, các tu sĩ là những chứng tá và những người kiến tạo chương trình hiệp nhất, đỉnh vinh quang của lịch sử loài người trong kế hoạch của Thiên Chúa. Trên hết, nhờ khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm, là lời khấn giúp cho con người thoát khỏi những trở ngại để đạt tới đức ái nhiệt thành, người tu sĩ cùng nhau là dấu chỉ mang tính ngôn sứ của sự hiệp nhất thâm sâu với Thiên Chúa, Đấng mà ta phải yêu mến trên hết mọi sự. Hơn nữa, qua kinh nghiệm hàng ngày của sự hiệp thông trong đời sống, trong cầu nguyện và hoạt động tông đồ - những yếu tố chủ yếu và đặc biệt của đời sống thánh hiến - họ là dấu chỉ của tình huynh đệ. Thực vậy, trong một thế giới thường bị chia cắt sâu xa, và trước mắt anh em của mình trong đức tin, họ đưa ra chứng tá là họ có khả năng để chung của cải, yêu thương huynh đệ, có một chương trình sống và hoạt động riêng, vì họ đã chấp nhận lời kêu gọi đi theo sát Chúa Ki-tô cách tự do hơn, Đấng đã được Chúa Cha sai đến, để với tư cách là trưởng tử giữa nhiều anh chị em, Người thiết lập một tình huynh đệ trong ân huệ của Thánh Thần (26).
Tất cả những điều này sẽ trở nên rõ ràng hơn đến độ họ không chỉ suy tưởng với và trong Giáo Hội, mà còn cảm thấy chính mình là Giáo Hội, bằng cách đồng hoá chính mình với Giáo Hội trong hiệp thông trọn vẹn với giáo thuyết, với sự sống, với các mục tử, với niềm tin và với sứ vụ của Giáo Hội trong thế giới (27).
Chứng tá do các tu sĩ chiêm niệm đem lại có ý nghĩa đặc biệt. Đối với họ, đời sống huynh đệ có những chiều kích sâu rộng hơn, bắt nguồn từ những đòi hỏi cơ bản của ơn gọi đặc biệt này, là tìm kiếm một mình Thiên Chúa trong thinh lặng và cầu nguyện
Việc họ thường xuyên gắn bó với Thiên Chúa làm cho họ gắn bó với những phần tử khác trong cộng đoàn cách tế nhị và tôn trọng hơn, và sự chiêm niệm đem lại một sức mạnh giải phóng họ khỏi mọi hình thức ích kỷ.
Đời sống huynh đệ cộng đoàn trong một đan viện được coi là dấu chỉ sống động của mầu nhiệm Giáo Hội: mầu nhiệm ân sủng càng lớn thì hoa quả ơn cứu độ càng dồi dào.
Bằng cách này, Thần Khí của Chúa, Đấng đã quy tụ các tín hữu đầu tiên, và là Đấng tiếp tục kêu gọi Giáo Hội trở thành một gia đình duy nhất, cũng kêu gọi và nuôi dưỡng các gia đình tu trì, nhờ những cộng đoàn của mình rải rác trên khắp thế giới, có sứ vụ trở nên những dấu chỉ rõ rệt của sự hiệp thông nội tại, sự hiệp thông sâu đậm làm sinh động và kiến tạo Giáo Hội, đồng thời hỗ trợ cho việc hoàn thành chương trình của Thiên Chúa.
CHƯƠNG II: CỘNG ĐOÀN TU TRÌ LÀ NƠI MỌI NGƯỜI TRỞ THÀNH ANH CHỊ EM
11. Từ hồng ân hiệp thông phát sinh bổn phận xây dựng tình huynh đệ, nói cách khác, bổn phận trở thành anh chị em với nhau trong một cộng đoàn, nơi mà tất cả mọi người được kêu gọi sống chung với nhau. Do việc chấp nhận với lòng thán phục và biết ơn các thực tại hiệp thông Thiên Chúa được chia sẻ cho riêng con người, cũng phát sinh xác tín về sự cần thiết phải làm cho sự hiệp thông đó trở nên rõ ràng hơn bằng việc xây dựng những cộng đoàn ”tràn đầy niềm vui và Thánh Thần” (Cv 13,52).
Trong thời đại chúng ta và vì thời đại chúng ta, cần phải tái đảm nhận công việc ”nhân thần” này trong việc xây dựng cộng đoàn anh chị em, đang khi vẫn luôn nhớ đến những hoàn cảnh đặc trưng của thời đại ngày nay, trong đó sự phát triển thần học, giáo luật, xã hội và cơ chế đã ảnh hưởng sâu xa đến dự phóng và đời sống cộng đoàn tu trì.
Khởi từ một số những hoàn cảnh cụ thể, văn kiện này muốn trình bày những chỉ dẫn nhằm củng cố sự dấn thân để không ngừng canh tân các cộng đoàn theo tinh thần Phúc Âm.
Linh đạo và việc cầu nguyện chung
12. Trong nguồn cội huyền nhiệm, mỗi cộng đoàn Ki-tô giáo đích thực ”chính là một thực tại đối thần, một đối tượng của sự chiêm niệm” (28). Do đó, trên hết, cộng đoàn tu trì là một mầu nhiệm phải được chiêm niệm và đón nhận với lòng ngưỡng mộ và tri ân, trong chiều kích trong sáng của niềm tin.
Hễ khi nào chúng ta không thấy được chiều kích huyền nhiệm và đối thần này, chiều kích nối kết cộng đoàn tu trì với mầu nhiệm Thiên Chúa hiệp thông, hiện diện và truyền thông cho cộng đoàn, tất nhiên chúng ta sẽ đi đến chỗ quên những lý do sâu xa ảnh hưởng đến việc “kiến tạo cộng đoàn”, đến việc kiên trì xây dựng đời sống huynh đệ. Cuộc sống này đôi khi có vẻ như vượt quá sức con người và là một sự lãng phí sinh lực vô ích, đặc biệt đối với những người hăng say dấn thân hoạt động và bị chi phối bởi một nền văn hoá duy hoạt động và cá nhân chủ nghĩa.
Cũng một Đức Ki-tô, Đấng đã kêu gọi họ, hàng ngày vẫn kêu gọi các anh chị em lại với nhau để nói với họ, để hiệp nhất họ với chính Người và với nhau trong bí tích Thánh Thể, đồng hoá với Thân Thể sống động và hữu hình của Người, nơi Chúa Thánh Thần đang hoạt động, trong hành trình hướng về Chúa Cha.
Việc cầu nguyện chung, vốn luôn được xem là nền tảng của tất cả đời sống cộng đoàn, bắt đầu từ việc chiêm niệm mầu nhiệm vĩ đại và siêu phàm của Thiên Chúa, từ việc thán phục sự hiện diện của Người, đang diễn ra trong những giây phút ý nghĩa nhất của đời sống các gia đình dòng tu cũng như trong những thực tại khiêm tốn và thường nhật của các cộng đoàn tu trì chúng ta.
13. Để đáp lại lời Chúa khuyên: ”hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (x. Lc 21,36), một cộng đoàn tu trì cần phải tỉnh thức và có thời gian cần thiết để quan tâm đến phẩm chất của đời sống cộng đoàn. Đôi khi anh chị em tu sĩ ”không có thời giờ” và ngày sống của họ có nguy cơ trở nên quá bận rộn và lo lắng, và cuối cùng, họ có thể cảm thấy mệt mỏi và kiệt sức. Thực vậy, cộng đoàn tu trì được điều chỉnh nhờ một thời khoá biểu đều đặn ấn định thời giờ cho việc cầu nguyện, và nhất là nhờ đó chúng ta biết dành thời giờ cho Thiên Chúa (vacare Deo).
Việc cầu nguyện phải được xem như là thời gian kết hợp với Thiên Chúa nhờ đó Người có thể hoạt động trong chúng ta, và giữa những lo lắng, mệt nhọc của chúng ta, Người có thể đi vào đời sống chúng ta, an ủi và dìu dắt, để cuối cùng trọn cuộc sống chúng ta có thể thuộc về Người.
14. Một trong những thành quả giá trị nhất trong những thập niên gần đây được mọi người nhìn nhận và ca tụng, là việc các gia đình tu trì tái khám phá kinh nguyện phụng vụ.
Việc cử hành chung Các Giờ Kinh Phụng Vụ, hay ít là một phần, đã tiếp sinh khí cho kinh nguyện trong nhiều cộng đoàn, một kinh nguyện được liên kết sống động hơn với Lời Thiên Chúa và với kinh nguyện của Giáo Hội (29).
Vì thế, tất cả mọi người đều phải xác tín mạnh mẽ rằng một cộng đoàn được xây dựng khởi từ phụng vụ, đặc biệt từ việc cử hành bí tích Thánh Thể (30) và những bí tích khác. Trong số những bí tích này, nên chú tâm lại tới bí tích Hoà Giải, vì qua đó Thiên Chúa khôi phục sự hiệp nhất với chính Người và với anh chị em.
Noi gương cộng đoàn tiên khởi ở Giê-ru-sa-lem (x. Cv 2,42), Lời Chúa, Thánh Thể, cầu nguyện chung, tận tuỵ và trung thành với lời giảng dạy của các Tông Đồ và những người kế vị các ngài: những yếu tố ấy giúp ta tiếp xúc với những kỳ công của Thiên Chúa ; nhờ các cử hành cộng đoàn, những kỳ công này trở nên rực rỡ và làm nên lời ngợi khen, cảm tạ, vui mừng, hiệp nhất các tâm hồn, giúp nhau chia sẻ những khó khăn trong đời sống hằng ngày, và khuyến khích nhau trong niềm tin.
Không may, sự giảm sút con số các linh mục ở nơi này hay nơi khác khiến cho việc tham dự Thánh Lễ hàng ngày không thực hiện được. Trong những hoàn cảnh đó, chúng ta phải quan tâm đào tạo việc thưởng nếm những ân huệ tuyệt vời của bí tích Thánh Thể, và phải đặt mầu nhiệm Mình và Máu Thánh Chúa vào chính cuộc sống của chúng ta, mầu nhiệm đang sống và hiện diện trong cộng đoàn, để nâng đỡ và thôi thúc cộng đoàn trong hành trình đến với Chúa Cha. Từ đó phát sinh sự cần thiết là mỗi cộng đoàn tu trì phải có nhà nguyện riêng như là trung tâm của cộng đoàn (31), nơi các phần tử có thể nuôi dưỡng lòng sùng mộ Thánh Thể bằng việc cầu nguyện và tôn thờ.
Chính xoay quanh bí tích Thánh Thể, được cử hành hoặc tôn thờ, ”nguồn mạch và đỉnh cao” của mọi hoạt động trong Giáo Hội, ta kiến tạo được sự hiệp thông các tâm hồn, sự hiệp thông này là khởi điểm cho tất cả sự tăng trưởng trong tình huynh đệ. ”Tất cả mọi nền giáo dục về tinh thần cộng đoàn đều phải bắt đầu từ đây” (32).
15. Việc cầu nguyện chung đạt được hiệu quả trọn vẹn khi liên kết mật thiết với việc cầu nguyện riêng. Việc cầu nguyện chung và cầu nguyện riêng gắn bó chặt chẽ với nhau và bổ sung lẫn nhau. Khắp nơi, nhưng đặc biệt trong một số miền và một số nền văn hoá, phải nhấn mạnh hơn đến khía cạnh nội tâm, đến mối tương quan phụ tử với Chúa Cha, đến mối tương quan thân mật và phu thê với Đức Ki-tô, đến việc đào sâu những gì được cử hành và được sống trong kinh nguyện cộng đoàn, đến sự thinh lặng bên trong và bên ngoài hầu dành một khoảng không gian cho Ngôi Lời và Thánh Thần, nhằm tái sinh những chiều sâu kín ẩn nhất. Người tận hiến sống trong cộng đoàn sẽ nuôi dưỡng sự thánh hiến của mình vừa qua việc liên tục đối thoại cá nhân với Thiên Chúa, vừa qua lời ngợi khen và chuyển cầu của cộng đoàn.
16. Trong những năm gần đây, kinh nguyện cộng đoàn đã trở nên phong phú nhờ những hình thức diễn tả và chia sẻ khác nhau.
Đối với nhiều cộng đoàn, sự chia sẻ trong việc đọc và suy gẫm Lời Chúa (lectio divina), cũng như việc chia sẻ những kinh nghiệm thiêng liêng của cá nhân và những thao thức tông đồ, đã nảy sinh hoa trái đặc biệt. Sự khác biệt do tuổi tác, do việc đào tạo và do tính tình, làm cho cộng đoàn cần phải thận trọng khi đòi hỏi sự chia sẻ trong toàn thể cộng đoàn. Thiết tưởng nên nhắc nhở rằng không thể hối thúc thời điểm tốt được.
Ở đâu được thực hành với tính tự phát và với sự đồng ý chung, sự chia sẻ như thế sẽ nuôi dưỡng đức tin, đức cậy cũng như lòng tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau, giúp thực hiện sự hoà giải và nuôi dưỡng tình liên đới huynh đệ trong lời cầu nguyện.
17. Lời Chúa truyền ”phải cầu nguyện luôn và đừng nản lòng” (Lc 18,1 ; x. Tx 5,17) có giá trị đối với việc cầu nguyện riêng cũng như cầu nguyện chung. Mỗi cộng đoàn tu trì đang không ngừng sống dưới cái nhìn của Chúa và phải luôn luôn ý thức sự hiện diện của Người. Tuy nhiên, kinh nguyện chung có nhịp điệu riêng mà chu kỳ (hằng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm) phải được quy định trong luật riêng của mỗi hội dòng.
Cầu nguyện chung đòi hỏi việc trung thành với thời khoá biểu và, trên hết, đòi phải có sự kiên trì ”nhờ những lời Kinh Thánh làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và khích lệ chúng ta, để nhờ đó, chúng ta hy vọng có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa là Thân Phụ của Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta” (Rm 15,4-6).
Lòng trung thành và sự kiên trì cũng sẽ giúp ta khắc phục được một số khó khăn nơi một vài cộng đoàn, một cách sáng tạo và khôn ngoan, như những dấn thân đa dạng, và những khó khăn do thời khoá biểu, công việc quá tải thu hút con người, và nhiều thứ mệt nhọc khác nữa.
18. Việc cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, được thúc đẩy bởi lòng yêu mến người, lòng yêu mến dẫn chúng ta tới chỗ noi gương người, đưa đến hiệu quả là gương mẫu và sự hiện diện đầy tình mẫu tử của Mẹ trở thành sức hỗ trợ lớn lao giúp ta trung thành trong kinh nguyện hàng ngày (x. Cv 1,14), đồng thời cũng là mối dây hiệp thông của cộng đoàn tu trì (33).
Mẹ Thiên Chúa sẽ giúp các cộng đoàn trở nên giống gia đình của Mẹ, gia đình Na-da-rét, nơi mà các cộng đoàn tu trì phải thường xuyên thăm viếng cách thiêng liêng, vì nơi đó Tin Mừng hiệp thông và huynh đệ đã được sống một cách tuyệt vời.
19. Việc cầu nguyện chung cũng nâng đỡ và nuôi dưỡng nhiệt tình tông đồ. Một mặt, cầu nguyện là một năng lực biến đổi kỳ diệu bao trùm tất cả mọi thực tại để cứu chuộc và xếp đặt trật tự cho thế giới. Đàng khác, nó là sự khích lệ trong tác vụ tông đồ, trong những niềm vui và khó khăn hàng ngày. Như thế, tất cả những điều này trở nên cơ hội để tìm kiếm và khám phá ra sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa.
20. Các cộng đoàn tu trì đang hăng say sống tinh thần tông đồ và loan báo Phúc Âm - dù là chiêm niệm hay hoạt động - là những cộng đoàn có kinh nghiệm phong phú về việc cầu nguyện. Trong thời đại của chúng ta, một thời đại có sự thức tỉnh trong việc tìm kiếm Đấng Siêu Việt, thì các cộng đoàn tu trì có thể trở thành những nơi ưu tiên, ở đó người ta cảm nghiệm được những nẻo đường dẫn đến Thiên Chúa.
“Như một gia đình hiệp nhất nhân danh Thiên Chúa, cộng đoàn tu trì tự bản chất là nơi mà kinh nghiệm về Thiên Chúa phải đi tới chỗ trọn vẹn và chuyển thông cho những người khác một cách đặc biệt” (34), trước hết là cho các anh chị em của mình trong cộng đoàn.
Những người nam nữ đã tận hiến cho Thiên Chúa sẽ không gặp được thách đố lịch sử này, nếu họ không đáp trả việc ”tìm kiếm Thiên Chúa” nơi những người đồng thời với chúng ta, những người này rồi có lẽ sẽ quay sang những nẻo đường lầm lạc khác trong cố gắng tìm thoả mãn cơn khát Đấng Tuyệt Đối của họ.
Tự do cá nhân và việc xây dựng tình huynh đệ
21. ”Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, và như vậy là chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 6,21). Trong toàn bộ sức sống của đời sống cộng đoàn, Đức Ki-tô, trong mầu nhiệm Vượt Qua của Người, trở thành mẫu mực để xây dựng sự hiệp nhất. Quả thực, Người là nguồn mạch, là mẫu mực và thước đo của giới luật yêu thương: chúng ta phải thương yêu nhau như chính Người đã yêu thương chúng ta. Và Người đã yêu chúng ta đến độ hiến mình cho chúng ta. Đời sống chúng ta là sự chia sẻ đức ái của Chúa Ki-tô, tình yêu của người đối với Chúa Cha và với anh em, chị em của Người, một tình yêu quên mình.
Tuy nhiên, tất cả điều này không nằm trong bản chất ”con người cũ”, con người muốn sự hiệp thông và hiệp nhất nhưng lại không muốn, hoặc không dám trả cái giá của sự cam kết dấn thân. Lộ trình từ ”con người cũ” chỉ muốn đóng kín nơi chính mình, tới ”con người mới” trao ban chính mình cho người khác, là một lộ trình dài và khó khăn. Các thánh sáng lập dòng đã nhấn mạnh một cách thực tế đến những khó khăn và nguy hiểm của lộ trình, bởi các ngài biết rằng cộng đoàn không thể tự nhiên mà thành được. Đó không phải là chuyện tự phát, cũng không thể hoàn thành được trong thời gian ngắn.
Để sống với nhau như là anh em và chị em, cần phải có một cuộc hành trình giải phóng nội tâm đích thực. Khi được giải thoát khỏi Ai-cập, Ít-ra-en đã trở thành Dân Thiên Chúa sau một cuộc hành trình dài qua sa mạc dưới sự lãnh đạo của ông Mô-sê. Cũng vậy, một cộng đoàn tháp nhập vào Giáo Hội như là Dân Thiên Chúa, phải được xây dựng bằng những con người mà Chúa Ki-tô đã giải thoát và làm cho có khả năng yêu thương như Người đã yêu thương, bằng hồng ân tình yêu giải phóng của Người và chân thành chấp nhận những người Chúa ban để hướng dẫn chúng ta.
Tình yêu Chúa Ki-tô đổ đầy tràn lòng chúng ta, thôi thúc chúng ta yêu thương anh em và chị em mình đến độ nhận lấy những yếu đuối, những vấn đề và những khó khăn của họ. Tắt một lời: yêu đến mức trao ban chính mình.
22. Đức Ki-tô ban cho con người hai điều chắc chắn căn bản: chắc chắn được yêu vô biên và chắc chắn có khả năng yêu không giới hạn. Ngoài Thập Giá của Đức Ki-tô, không gì có thể ban phát đầy đủ và dứt khoát hai điều chắc chắn này cùng với sự tự do bởi hai điều đó mà ra. Qua đó, những người tận hiến dần dần thoát khỏi nhu cầu muốn là trung tâm vũ trụ và chiếm hữu người khác, cũng như thoát khỏi sự sợ hãi trao ban chính mình cho anh chị em. Đúng hơn, họ học biết yêu như Đức Ki-tô đã yêu họ, với tình yêu nay được đổ tràn đầy lòng họ, làm cho họ có khả năng quên mình và hiến mình như Chúa đã làm.
Nhờ sức mạnh tình yêu này, cộng đoàn xuất hiện như là một tập hợp những con người tự do đã được Thập Giá Đức Ki-tô giải thoát.
23. Tuy nhiên, lộ trình giải thoát này, lộ trình dẫn tới sự hiệp thông trọn vẹn và sự tự do của con cái Thiên Chúa, đòi phải can đảm từ bỏ chính mình trong việc chấp nhận và đón nhận tha nhân với những giới hạn của họ, khởi đầu từ việc chấp nhận quyền bính.
Nhiều người cho rằng điều này tạo nên một trong những điểm yếu của thời kỳ canh tân trong những năm gần đây. Sự hiểu biết về đời sống cộng đoàn đã gia tăng, và người ta đã nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của đời sống cộng đoàn. Tuy nhiên, người ta đã ít quan tâm đến nỗ lực khổ chế, là điều cần thiết và không thể thay thế cho bất cứ sự giải phóng nào nhằm biến đổi một nhóm người trở thành một cộng đoàn huynh đệ Ki-tô giáo.
Hiệp thông là một hồng ân cũng đòi hỏi lời đáp trả, đòi hỏi kiên trì học hỏi và kinh nghiệm chiến đấu, hầu thắng vượt những thái quá trong bản năng và tính thất thường trong các ước muốn. Lý tưởng cao nhất của cộng đoàn tất nhiên kèm theo sự hoán cải từ mỗi một thái độ trái ngược với sự hiệp thông.
Cộng đoàn mà không có tính cách huyền nhiệm thì không có hồn ; nhưng cộng đoàn không có khổ chế thì không có xác. Cần phải có ”sự phối hợp” giữa hồng ân của Thiên Chúa và dấn thân cá nhân để xây dựng sự hiệp thông nhập thể, nói cách khác, để trao ban một bộ mặt cụ thể cho ân sủng và hồng ân hiệp thông huynh đệ.
24. Phải nhìn nhận rằng kiểu lập luận trên gây ra khó khăn đối với cả người trẻ lẫn người trưởng thành hôm nay. Thường thường người trẻ đến từ nền văn hoá đánh giá cao tính chủ quan và tìm kiếm sự tự mãn, trong khi những người trưởng thành hoặc bị ràng buộc bởi những cơ cấu quá khứ, hoặc bởi kinh nghiệm chán ngấy những cuộc hội họp kéo dài vô tận, nguồn gốc của tật dài lời và không xác thực vẫn thịnh hành cách đây ít năm.
Nếu quả thực là không thể có sự hiệp thông mà không có sự tự trao hiến của mỗi phần tử, thì ngay từ đầu, cần phải dẹp bỏ ảo tưởng cho rằng mọi sự phải đến từ những người khác, và cần phải giúp mỗi người khám phá ra, với lòng biết ơn, tất cả những gì mình đã nhận lãnh và thực sự đang nhận lãnh từ tha nhân. Ngay từ đầu, nhất thiết phải chuẩn bị để mình không phải chỉ là ”khách hàng” của cộng đoàn, nhưng trên hết, phải là những người xây dựng cộng đoàn ; những người có trách nhiệm đối với sự thăng tiến của anh chị em ; những người cởi mở và có khả năng lãnh nhận hồng ân của người khác ; những người có thể giúp đỡ và được giúp đỡ ; những người có thể thay thế và có thể được thay thế.
Đời sống cộng đoàn huynh đệ và chia sẻ tự nhiên có sức cuốn hút người trẻ, nhưng về sau, sự kiên trì trong những điều kiện thực tế của đời sống có thể trở thành gánh nặng. Do đó, việc huấn luyện khởi đầu cần giúp người trẻ ý thức những hy sinh phải có để sống cộng đoàn, để chấp nhận những hy sinh đó trong mối tương quan huynh đệ vui tươi và chân thành, và với tất cả những thái độ khác là đặc trưng của người tự do nội tâm (35). Khi chúng ta chịu bỏ mình vì anh chị em, thì chúng ta tìm lại được chính mình.
25. Phải luôn luôn nhớ rằng sự thành toàn người tu sĩ nam hay nữ đạt được đều qua cộng đoàn của mình. Ai thử cố sống một cuộc đời tự lập, tách biệt khỏi cộng đoàn, chắc chắn không gặp được con đường an toàn dẫn tới sự trọn lành của bậc mình.
Trong khi xã hội Tây phương cổ võ con người tự lập, con người có thể một mình đạt được sự thành công cá nhân, con người theo chủ nghĩa cá nhân tự tín, thì Tin Mừng đòi hỏi những con người, giống như hạt lúa mì, phải biết chết đi cho chính mình để làm nảy sinh đời sống huynh đệ (36).
Như thế, cộng đoàn trở thành ”Schola Amoris”, trường dạy yêu mến, cho người trẻ cũng như cho người trưởng thành - trong trường học này, mọi người học biết yêu mến Thiên Chúa, yêu mến người anh em, chị em chung sống với mình, và yêu mến đồng loại, những người đang rất cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa và tình liên đới huynh đệ.
26. Lý tưởng cộng đoàn không được làm chúng ta mù quáng trước sự kiện này là mọi thực tại Ki-tô giáo được xây dựng trên sự mỏng manh yếu đuối của con người. Chưa có ”một cộng đoàn lý tưởng”: sự hiệp thông hoàn hảo của các thánh là mục tiêu của chúng ta ở Giê-ru-sa-lem trên trời.
Thời của chúng ta bây giờ là thời khởi công và kiên trì xây dựng. Chúng ta luôn luôn có thể cải thiện và cùng nhau đi tới một cộng đoàn khả dĩ sống trong tha thứ và yêu thương. Các cộng đoàn không thể tránh được hết mọi xung đột va chạm. Sự hiệp nhất mà chúng ta phải xây dựng là sự hiệp nhất được thiết lập bằng cái giá của sự hoà giải (37). Sự bất toàn trong cộng đoàn không được làm chúng ta nản chí.
Mỗi ngày, cộng đoàn lại lên đường, được giáo huấn của các Tông Đồ nâng đỡ: ”Hãy thương mến nhau với tình huynh đệ ; coi người khác trọng hơn mình” (Rm 12,10) ; ”Hãy đồng tâm nhất trí với nhau” (Rm 12,16) ; ”Hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em” (Rm 15,7) ; ”Tôi tin chắc rằng... anh em... có khả năng khuyên bảo nhau” (Rm 15,14) ; ”Anh em hãy chờ nhau” (1 Cr 11,33) ; ”Hãy đem lòng yêu thương mà làm tôi lẫn nhau” (Gl 5,13) ; “Hãy an ủi nhau” (1 Tx 5,11) ; ”Hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4,2) ; ”Phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau” (Ep 4,32) ; ”Vì lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau” (Ep 5,21) ; ”Hãy cầu nguyện cho nhau” (Gc 5,16) ; ”Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau” (1 Pr 5,5) ; ”Chúng ta được hiệp thông với nhau” (1 Ga 1,7) ; ”Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí... nhất là cho những anh em cùng trong đại gia đình đức tin” (Gl 6,9-10).
27. Có lẽ hữu ích khi nhắc lại rằng: để nuôi dưỡng sự hiệp thông tâm trí giữa những người được gọi chung sống trong một cộng đoàn, nhất thiết phải trau dồi những đức tính cần có trong tất cả các mối quan hệ nhân bản: sự kính trọng, lòng tốt, sự chân thành, tự kiềm chế, lịch thiệp, biết khôi hài và tinh thần chia sẻ.
Những tài liệu mới đây của Huấn quyền có nhiều gợi ý và chỉ dẫn phong phú cho đời sống cộng đoàn như: đơn sơ vui vẻ (38), thẳng thắn và tín nhiệm lẫn nhau (39), có khả năng đối thoại (40), và thành tâm chấp nhận kỷ luật tốt lành của cộng đoàn (41).
28. Cuối cùng, chúng ta không được quên rằng, sự bình an và hoan lạc trong đời sống chung là những dấu chỉ của Nước Thiên Chúa. Niềm vui sống cả giữa những khó khăn gặp phải trên hành trình thiêng liêng và nhân bản, và cả giữa những phiền muộn hàng ngày cũng đã là một phần của Nước Trời. Niềm vui này là hoa trái của Chúa Thánh Thần, và bao gồm một đời sống đơn giản và kết cấu đơn điệu thường nhật. Tình huynh đệ không có niềm vui là tình huynh đệ đang chết ; sớm muộn, các thành viên sẽ bị cám dỗ đi tìm ở nơi khác điều mà họ không thể tìm thấy trong cộng đoàn của mình. Một tình huynh đệ đầy niềm vui là ân huệ từ trên ban cho anh em, chị em là những người biết cầu xin và biết chấp nhận nhau, phó thác cho đời sống huynh đệ, tin tưởng vào hành động của Chúa Thánh Thần. Do đó, lời Thánh vịnh đã được ứng nghiệm: ”Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau... Nơi đây ân huệ Chúa ban, chính là sự sống chứa chan muôn đời” (Tv 132,1-3) ; ”Bởi vì, khi chung sống với nhau như anh em, họ được liên kết trong sự hiệp nhất của Giáo Hội ; họ chỉ có một tâm hồn trong đức ái, một ý muốn” (42).
Chứng từ niềm vui là sự lôi cuốn mãnh liệt vào đời sống tu trì, là nguồn phát sinh những ơn gọi mới, và khích lệ bền đỗ. Điều rất quan trọng là phải nuôi dưỡng niềm vui như thế trong cộng đoàn tu trì: làm việc quá sức có thể huỷ diệt niềm vui, nhiệt tình quá độ vì những nguyên do nào đó có thể đưa một số người tới chỗ quên lãng niềm vui, việc không ngừng tự phân tích căn tính và tương lai của mình cũng có thể che khuất niềm vui.
Có thể vui sống với nhau ; dành thời gian cho việc giải trí cá nhân và tập thể ; thỉnh thoảng tạm dừng công việc một chút ; chia sẻ niềm vui nỗi buồn của anh em, chị em mình ; tin tưởng dấn thân làm việc tông đồ ; trắc ẩn trước mọi tình huống ; nhìn về ngày mai với niềm hy vọng gặp gỡ Thiên Chúa mọi lúc và mọi nơi: đó chính là những nhân tố nuôi dưỡng sự thanh thản, bình an và niềm vui: những nhân tố này trở thành sức mạnh trong hoạt động tông đồ.
Niềm vui là chứng từ rực rỡ cho phẩm chất Tin Mừng của cộng đoàn tu trì ; nó là đích điểm của một cuộc hành trình đầy gian lao, nhưng vẫn có thể hoàn tất vì được nâng đỡ nhờ lời cầu nguyện: ”Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện” (Rm 12,12).
Truyền thông để cùng nhau thăng tiến
29. Trong công cuộc canh tân vào những năm gần đây, vấn đề truyền thông được coi là một trong những yếu tố nhân bản càng ngày càng có tầm quan trọng đối với đời sống cộng đoàn tu trì. Nhu cầu nâng cao đời sống huynh đệ trong cộng đoàn được cảm nhận sâu xa, kèm theo một nhu cầu tương ứng với sự truyền thông vừa rộng lớn, vừa mạnh mẽ hơn.
Để trở nên anh em, chị em với nhau, cần phải hiểu biết nhau. Để hiểu biết nhau thì điều rất quan trọng là phải truyền thông nhiều hơn và sâu sắc hơn. Ngày nay, người ta đã chú ý hơn tới những khía cạnh khác của sự truyền thông, mặc dù hình thức và cấp độ có thể thay đổi giữa hội dòng này với hội dòng khác, giữa miền này với miền kia.
30. Truyền thông ở trong nội bộ các hội dòng đã phát triển đáng kể. Những cuộc hội họp thường lệ giữa những thành phần thuộc các cấp bậc khác nhau, cấp trung ương, cấp miền, cấp tỉnh dòng đã gia tăng : các bề trên thường gửi những thư từ và nhắc nhở, và những cuộc thăm viếng các cộng đoàn thường xuyên hơn. Việc xuất bản các thông tin và nội san định kỳ cũng phổ biến hơn.
Loại truyền thông rộng rãi này ở những cấp độ khác nhau tương ứng với đặc tính riêng của từng hội dòng, thường tạo nên những mối liên hệ gần gũi hơn, nuôi dưỡng tinh thần gia đình và sự chia sẻ mối quan tâm của toàn thể hội dòng, giúp nhạy cảm hơn đối với các vấn đề chung, và đem các tu sĩ lại gần nhau hơn quanh sứ vụ chung của họ.
31. Những cuộc hội họp thường lệ ở cấp độ cộng đoàn, thường theo nhịp độ hàng tuần, cũng tỏ ra rất hữu ích ; những buổi gặp gỡ này giúp các thành viên chia sẻ các vấn đề liên quan đến cộng đoàn, đến hội dòng, đến Giáo Hội, và các tài liệu quan trọng của Giáo Hội. Chúng tạo cơ hội để lắng nghe nhau, chia sẻ những ý nghĩ riêng của mỗi người, nhìn lại và đánh giá những kinh nghiệm quá khứ, và cùng nhau suy nghĩ và thảo kế hoạch.
Những cuộc họp mặt như thế đặc biệt cần thiết cho sự thăng tiến và phát triển đời sống huynh đệ, nhất là trong những cộng đoàn rộng lớn. Phải dành riêng thời giờ cho mục đích này và tránh tất cả những công việc khác. Thêm vào việc quan tâm tới đời sống cộng đoàn, những cuộc hội họp này cũng quan trọng để thực thi tinh thần đồng trách nhiệm và sắp đặt công việc không những trong bối cảnh của đời sống cộng đoàn, mà còn trong cơ cấu rộng lớn hơn của đời sống tu trì, đời sống Giáo Hội và đời sống thế giới mà chúng ta được sai đến thi hành sứ vụ. Đây là con đường mà mỗi cộng đoàn phải theo đuổi, thích nghi nhịp điệu và đường hướng với chiều kích của cộng đoàn và những dấn thân của các phần tử, đồng thời tôn trọng lối sống riêng của các cộng đoàn chiêm niệm.
32. Nhưng còn hơn thế nữa. Ở nhiều nơi người ta cảm thấy có nhu cầu truyền thông mật thiết hơn giữa các tu sĩ chung sống trong cùng một cộng đoàn. Sự thiếu sót hay giảm sút truyền thông thường dẫn tới sự suy giảm tình huynh đệ ; nếu chúng ta biết ít hay không biết gì về đời sống của anh em hay chị em mình, thì họ sẽ là những người xa lạ với chúng ta, mối liên hệ sẽ trở nên vô danh, đồng thời tạo nên những vấn đề thực tế của cảnh cô lập và cô đơn. Một số cộng đoàn phàn nàn về phẩm chất nghèo nàn trong việc chia sẻ cơ bản những tài sản tinh thần: truyền thông chỉ diễn ra chung quanh những vấn đề và những khó khăn thứ yếu mà hiếm khi chia sẻ về những gì sống động và cốt lõi của hành trình thánh hiến.
Những hậu quả này có thể tệ hại, vì lúc đó kinh nghiệm thiêng liêng một cách vô tình sẽ mang màu sắc cá nhân. Tâm trạng tự mãn trở nên quan trọng hơn ; thái độ thiếu nhạy cảm với những phát triển của người khác ; và rồi dần dần người ta đi tìm kiếm những mối quan hệ có ý nghĩa ở bên ngoài cộng đoàn.
Vấn đề này cần được đề cập tới một cách rõ ràng. Một mặt, nó đòi hỏi một đường lối khéo léo và thận trọng mà không phải dùng đến áp lực ; nhưng mặt khác, cũng đòi hỏi lòng can đảm và óc sáng tạo, tìm kiếm những cách thức và phương pháp khả dĩ giúp mọi người học chia sẻ những hồng ân của Thần Khí cách đơn sơ và đầy tình huynh đệ, để những hồng ân này có thể thực sự thuộc về tất cả và là phúc lợi cho tất cả (x. 1 Cr 12,7).
Sự truyền thông nảy sinh nhất là trong việc chia sẻ các hồng ân của Thần Khí, chia sẻ đức tin và trong đức tin, ở đâu chúng ta càng chia sẻ những điều cốt lõi và sống động, ở đó mối dây huynh đệ càng lớn mạnh. Loại truyền thông này có thể hữu ích để học cách chia sẻ, cho phép các phần tử, trong tác vụ tông đồ riêng của họ, ”tuyên xưng đức tin” qua những ngôn từ đơn giản và sáng sủa mà mọi người đều có thể hiểu biết và yêu chuộng.
Có nhiều cách thức chia sẻ và truyền thông các ân huệ thiêng liêng. Ngoài những cách đã nêu lên (chia sẻ Lời Thiên Chúa và cảm nghiệm về Thiên Chúa, chia sẻ nhận định chung, những dự phóng chung) (43), chúng ta nên nhắc đến việc sửa lỗi huynh đệ, kiểm điểm đời sống và những hình thái đặc thù theo truyền thống. Đây là những cách thế cụ thể nhằm phục vụ người khác và đổ tràn vào cộng đoàn những hồng ân mà Thánh Thần ban tặng dồi dào nhằm phát triển cộng đoàn và sứ vụ của cộng đoàn trong thế giới.
Ngày nay, tất cả những điều này có tầm quan trọng hơn một khi các cộng đoàn thường bao gồm các tu sĩ khác nhau về tuổi tác và chủng tộc, các phần tử được đào tạo với nền giáo dục về văn hoá và thần học khác nhau, những tu sĩ đã có những kinh nghiệm khá dị biệt trong những năm biến động và đa nguyên này.
Không có đối thoại và lắng nghe, các phần tử trong cộng đoàn có nguy cơ sống một cuộc đời kề cận hoặc song hành, một khoảng cách xa với lý tưởng huynh đệ.
33. Mỗi hình thức truyền thông đều bao hàm những đường lối và những khó khăn tâm lý đặc biệt, cũng có thể được sự hỗ trợ tích cực của các khoa học nhân văn. Chẳng hạn, một số cộng đoàn đã lợi dụng sự giúp đỡ của các chuyên gia về truyền thông, và các chuyên viên trong lãnh vực tâm lý hay xã hội.
Đây là những biện pháp ngoại lệ cần được đánh giá một cách thận trọng, và chúng có thể được sử dụng hạn chế để phá đổ những bức tường ngăn cách đôi khi được dựng lên ngay trong cộng đoàn. Các kỹ thuật nhân loại này hữu ích nhưng không đủ. Tất cả chúng ta phải quan tâm tới phúc lợi của anh em, chị em mình, phát triển khả năng phúc âm để đón nhận được từ tha nhân tất cả những gì họ muốn hiến tặng và chuyển trao, và tất cả những gì họ thực sự chuyển trao bằng chính đời sống của họ.
Anh em hãy ”có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau... Hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích riêng cho mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác.” Những quan hệ hỗ tương của anh em phải đặt nền tảng trên sự thật này là anh em đã được hiệp nhất với Đức Ki-tô (x. Pl 2,2-5).
Trong bầu khí như vậy, những kỹ thuật và những đường hướng khác nhau nhằm sự truyền thông thích hợp với đời sống tu trì có thể giúp thăng tiến tình huynh đệ.
34. Ảnh hưởng đáng kể của các phương tiện truyền thông đại chúng đối với đời sống và não trạng hiện đại cũng có hiệu quả trên các cộng đoàn tu trì, và thường xuyên tác động tới sự truyền thông nội bộ.
Ý thức được ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng, cộng đoàn nên học sử dụng để cá nhân và cộng đoàn được thăng tiến, với sự trong sáng của Phúc Âm và tự do nội tâm của những con người đã được biết Đức Ki-tô (x. Gl 4,17-23). Những phương tiện truyền thông đề xuất, và thường áp đặt, một não trạng hay một lối sống phản lại Tin Mừng. Về vấn đề này, ở nhiều nơi, người ta mong muốn được đào tạo kỹ lưỡng hơn để tiếp nhận và sử dụng các phương tiện truyền thông một cách vừa có phê phán vừa hữu ích. Tại sao không làm cho các phương tiện truyền thông trở thành đối tượng để lượng giá, để phân định và để thảo kế hoạch trong các cuộc hội họp định kỳ của cộng đoàn ?
Đặc biệt, khi truyền hình trở thành hình thức giải trí duy nhất thì những mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đoàn bị cản trở, thậm chí bị chặn đứng, sự truyền thông huynh đệ bị giới hạn, và chính đời sống thánh hiến cũng có thể bị tổn thương.
Cần phải có sự quân bình đúng mức: việc sử dụng điều độ và thận trọng các phương tiện truyền thông đại chúng (44) cùng với sự cân nhắc của cộng đoàn, có thể giúp cộng đoàn hiểu biết sự phức tạp của thế giới văn hoá hơn, tiếp nhận các phương tiện truyền thông với ý thức và cái nhìn sáng suốt, và cuối cùng, đánh giá ảnh hưởng của các phương tiện ấy trong tương quan với các tác vụ khác nhau khi phục vụ Tin Mừng.
Để phù hợp với việc lựa chọn bậc sống đặc biệt biểu thị bằng sự cách biệt thế gian, các cộng đoàn chiêm niệm nên tự buộc mình nhiều hơn vào việc duy trì một bầu khí hồi tâm, được hướng dẫn bởi những quy tắc xác định trong hiến pháp riêng về việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội.
Cộng đoàn tu trì và sự thăng tiến cá nhân
35. Vì cộng đoàn tu trì là ”Trường dạy yêu mến” (Schola Amoris) giúp con người lớn lên trong tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em, nên cũng là nơi cho con người được triển nở. Con đường triển nở là một con đường cam go, vì đòi hỏi sự từ bỏ những điều nào đó có giá trị cao (45), nhưng không phải là không thể thực hiện được. Đông đảo các thánh nam nữ và những khuôn mặt diệu kỳ của các tu sĩ nam nữ minh chứng rằng sự thánh hiến cho Đức Ki-tô ”không tạo nên một chướng ngại nào cho sự phát triển con người thực sự, nhưng tự bản chất là một phúc lợi tột bực cho sự phát triển đó” (46).
Con đường tiến đến sự trưởng thành nhân bản, điều tiên quyết cho đời sống Phúc Âm sáng ngời, là một tiến trình không có giới hạn, vì nó bao hàm sự gia tăng liên tục không những các giá trị tinh thần, mà cả những giá trị thuộc lãnh vực xã hội, văn hoá và tâm lý (47).
Thực tế, trong những năm gần đây, những thay đổi lớn trong văn hoá và phong tục hướng đến những thực tại vật chất nhiều hơn là những giá trị tinh thần. Điều đó làm cho chúng ta thấy cần phải quan tâm đến một số lãnh vực mà ngày nay con người hình như dễ bị tổn thương một cách đặc biệt.
36. Căn tính
Tiến trình trưởng thành diễn ra trong sự đồng hoá mình với lời mời gọi của Thiên Chúa. Sự kém ý thức về căn tính có thể dẫn tới ý tưởng sai lầm về sự hoàn thiện bản thân, đặc biệt là vào những thời điểm khó khăn, với đòi hỏi thái quá là phải có những thành quả tích cực và được người khác chấp nhận, sợ hãi quá đáng về sự bất toàn, và chán nản do thất bại gây ra. Căn tính của người thánh hiến tuỳ thuộc vào sự trưởng thành tâm linh ; đây là công việc của Chúa Thánh Thần, Đấng thúc đẩy chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, bằng cách thức đặc biệt được ban tặng qua ”đoàn sủng sáng lập, đoàn sủng này là hình thức sống Tin Mừng của các phần tử trong hội dòng” (48). Vì lý do đó, rất cần sự giúp đỡ của người hướng dẫn tâm linh, người hiểu biết sâu xa và tôn trọng linh đạo và sứ vụ của hội dòng. Một người như thế sẽ ”phân định được hành động của Thiên Chúa, đồng hành với tu sĩ trong đường lối của Thiên Chúa, nuôi dưỡng đời sống bằng giáo thuyết vững vàng và bằng thực hành cầu nguyện” (49). Sự đồng hành này đặc biệt cần thiết trong giai đoạn đào tạo sơ khởi, nhưng vẫn ích lợi trong suốt cuộc đời, để nuôi dưỡng ”sự thăng tiến hướng đến sự sung mãn của Đức Ki-tô”.
Sự trưởng thành về văn hoá cũng giúp con người đương đầu với những thách đố của sứ vụ nhờ tiếp nhận những phương thế cần thiết để phân định những trào lưu tiến hoá và thực hiện những đáp trả tương xứng, trong đó Tin Mừng luôn được đưa ra như một đề xướng để lựa chọn trước những gọi mời của trần thế, Tin Mừng hội nhập những sức mạnh tích cực của trần thế và thanh tẩy chúng khỏi men ác thần.
Nhờ động lực này, con người thánh hiến và cộng đoàn tu trì là một cách bày tỏ Tin Mừng, một biểu lộ sự hiện diện của Đức Ki-tô trong thế giới (50).
37. Tình cảm
Đời sống huynh đệ cộng đoàn đòi hỏi mọi phần tử phải có sự quân bình về tâm lý, là điều kiện để đạt được sự trưởng thành về tình cảm. Như đã nói ở trên, một yếu tố nòng cốt của sự trưởng thành là sự tự do về mặt tình cảm, giúp những người thánh hiến có thể yêu mến ơn gọi của mình và yêu mến sao cho phù hợp với ơn gọi. Chính sự tự do và sự trưởng thành này giúp chúng ta sống đời sống tình cảm một cách đúng đắn cả ở bên trong lẫn bên ngoài cộng đoàn.
Yêu mến ơn gọi của mình, nhận thức ơn gọi đem lại ý nghĩa thật cho cuộc sống, và yêu mến sự thánh hiến như là một thực tại đích thực, đẹp đẽ và tốt lành, đem lại chân thiện mỹ cho cuộc sống của mình, tất cả những điều đó làm cho con người trở nên mạnh mẽ, tự lập và an toàn trong căn tính của mình, không cần đến những hình thức nâng đỡ và bù trừ khác, đặc biệt trong lãnh vực tình cảm. Tất cả những điều này củng cố mối dây liên kết con người tận hiến với những người cùng chia sẻ ơn gọi mình, nam hoặc nữ. Trước hết và trên hết, chính là với họ, mà người tận hiến cảm thấy được kêu gọi để sống liên đới trong tình huynh đệ và tình bằng hữu.
Yêu mến ơn gọi của mình là yêu mến Giáo Hội, là yêu mến hội dòng của mình, và cảm nghiệm cộng đoàn như là gia đình riêng của mình.
Yêu mến phù hợp với ơn gọi của mình là yêu mến theo cách thức của một người, mà trong mỗi một mối tương quan nhân bản, ước mong trở nên dấu chỉ rõ ràng của tình yêu Thiên Chúa, không xâm lấn cũng không chiếm hữu, nhưng yêu thương và ước mong điều tốt lành cho kẻ khác với lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Vì vậy, cần có sự huấn luyện đặc biệt trong lãnh vực tình cảm để giúp hoà hợp khía cạnh nhân loại với khía cạnh thiêng liêng cách đặc biệt hơn. Về phương diện này, những nguyên tắc chỉ đạo trong văn kiện ”Những chỉ dẫn về việc huấn luyện trong các hội dòng” (51) liên quan đến việc phân định ”sự quân bình tình cảm, đặc biệt là sự quân bình về tính dục” và ”khả năng sống trong cộng đoàn” là những điểm đặc biệt thích hợp.
Tuy nhiên, những khó khăn trong lãnh vực này thường là âm hưởng từ những vấn đề nảy sinh trong những lãnh vực khác: tình cảm và tính dục mang tính cách tự ái và ấu trĩ hoặc bị dồn nén khắt khe, đôi khi có thể là hậu quả của những kinh nghiệm tiêu cực trước khi gia nhập cộng đoàn, nhưng cũng có thể là hậu quả của những khó khăn trong cộng đoàn hay trong tác vụ tông đồ. Như thế, một đời sống đậm đà và ấm áp tình huynh đệ, một cuộc sống ”mang đỡ gánh nặng” của anh chị em bị tổn thương đang cần sự trợ giúp là điều đặc biệt quan trọng.
Trong khi cần có một sự trưởng thành nào đó để có thể sống cộng đoàn, thì một đời sống huynh đệ thân ái cũng cần thiết để tu sĩ đạt được sự trưởng thành. Ở đâu các phần tử trong cộng đoàn nhận thấy nơi anh em hay chị em mình sự trưởng thành tình cảm đã suy giảm, thì cộng đoàn phải đáp ứng bằng một tình yêu phong phú và nhân bản, giống như tình yêu của Chúa Giê-su và của nhiều tu sĩ thánh thiện, một tình yêu chia sẻ những lo âu lẫn vui mừng, khó khăn lẫn hy vọng, với tình yêu nồng ấm đó, một con tim mới biết cách chấp nhận toàn thể con người. Tình yêu như thế - một tình yêu biết quan tâm và tôn trọng, vô vị lợi hơn là chiếm hữu - sẽ làm cho tình yêu Thiên Chúa nên rất gần gũi: đó là tình yêu đã khiến Con Thiên Chúa công bố qua thập giá rằng, chúng ta không được nghi ngờ là chúng ta đã được yêu thương bởi Đấng là Tình Yêu.
38. Những khó khăn
Một cơ hội đặc biệt cho sự thăng tiến con người và sự trưởng thành Ki-tô hữu là việc sống với những con người đau khổ, những người cảm thấy không thoải mái trong cộng đoàn, và vì vậy, họ là duyên cớ gây đau khổ cho người khác và gây xáo trộn trong đời sống cộng đoàn.
Trước tiên, chúng ta phải tìm nguồn gốc của sự đau khổ đó. Đau khổ có thể xảy ra do khiếm khuyết về tính tình, những ràng buộc hình như quá nặng nề, những thiếu sót nghiêm trọng trong việc đào tạo, những biến chuyển quá nhanh trong những năm gần đây, những hình thức cai trị quá độc đoán, hoặc những khó khăn về tâm linh.
Có thể có một vài tình huống mà người có thẩm quyền phải nhắc nhở các phần tử của mình rằng : đời sống chung đôi khi đòi hỏi sự hy sinh và có thể trở thành một hình thức sám hối rất quan trọng, maxima poenitentia.
Trong vài trường hợp, cần nhờ đến các khoa học xã hội, đặc biệt những hoàn cảnh mà cá nhân rõ ràng không có khả năng để sống đời sống cộng đoàn do thiếu trưởng thành và yếu kém về tâm lý, hoặc do những nhân tố có tính cách bệnh lý nhiều hơn.
Sự can thiệp như vậy, không những tỏ ra hữu ích trong giai đoạn điều trị - trong những trường hợp ít nhiều rõ ràng là tâm bệnh - mà còn là một biện pháp ngăn ngừa, giúp ứng sinh chọn lựa cho đích đáng, và cũng để giúp đỡ đội ngũ đào tạo trong vài trường hợp liên quan đến những vấn đề sư phạm và huấn luyện đặc biệt (52).
Trong tất cả mọi trường hợp, khi chọn lựa các chuyên gia, phải ưu tiên dành cho những người có đức tin và những người có kinh nghiệm dồi dào về đời sống tu trì và những năng động lực của đời tu. Vì thế, nếu các chuyên gia này lại chính là các tu sĩ nam nữ sống đời thánh hiến thì tốt hơn.
Sau cùng, việc sử dụng những phương pháp như thế sẽ chỉ có hiệu quả thật sự nếu được áp dụng một cách giới hạn chứ không phải phổ biến, bởi vì các biện pháp sư phạm tâm lý không giải quyết được mọi vấn đề và vì vậy ”không thể thay thế cho việc linh hướng thực sự được” (53).
Từ ”tôi” đến ”chúng ta”
39. Sự tôn trọng con người, như Công Đồng và nhiều văn kiện khác sau đó khuyến cáo (54), đã có ảnh hưởng tích cực đến lối sống của các cộng đoàn. Tuy nhiên chủ nghĩa cá nhân đồng thời đang bành trướng với cường độ mạnh hay yếu tuỳ từng miền trên thế giới, dưới nhiều hình thức khác nhau: nhu cầu muốn đặt mình làm trung tâm ; nhấn mạnh quá mức đến sự thoải mái cá nhân dù là thể lý, tâm lý hay nghề nghiệp ; dành ưu tiên cho công việc cá nhân hay cho một công việc có uy tín và ”nổi bật” ; ưu tiên tuyệt đối cho những khát vọng và đường lối riêng của cá nhân mà không quan tâm đến những người khác và cũng không đếm xỉa gì tới cộng đoàn.
Mặt khác, cần phải tìm kiếm một sự quân bình chính đáng - một điều không phải luôn luôn dễ dàng đạt được - giữa công ích và sự tôn trọng con người, giữa những đòi hỏi và nhu cầu của cá nhân với của cộng đoàn, giữa đoàn sủng cá nhân và sứ vụ tông đồ cộng đoàn. Sự quân bình đó phải tránh sức mạnh phân rẽ của chủ nghĩa cá nhân lẫn khía cạnh cào bằng của chủ nghĩa cộng đồng. Cộng đoàn tu sĩ là nơi diễn ra cuộc vượt qua hằng ngày và kiên trì từ cái ”tôi” đến ”chúng ta”, từ công tác của tôi đến công tác được uỷ thác cho cộng đoàn ; từ việc tìm kiếm ”những điều thuộc về tôi” đến việc tìm kiếm ”những điều thuộc về Đức Ki-tô”.
Trong chiều hướng này, cộng đoàn tu trì trở thành nơi hằng ngày chúng ta học nhận lãnh một tinh thần mới, giúp chúng ta sống trong hiệp thông huynh đệ nhờ sự phong phú của những hồng ân khác nhau, và đồng thời cổ võ việc quy tụ những hồng ân này hướng đến tình huynh đệ và hướng đến tinh thần đồng trách nhiệm trong dự phóng tông đồ.
40. Để thực hiện một ”hoà điệu” cộng đoàn và tông đồ như vậy, cần phải:
a. cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa vì hồng ân ơn gọi và sứ vụ chung, một hồng ân trổi vượt mọi sự khác biệt cá nhân và văn hoá ; cổ võ thái độ chiêm niệm sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Đấng đã gửi đến cộng đoàn những anh chị em đặc biệt mà mỗi người đều là món quà cho người khác ; ngợi khen Thiên Chúa về những gì mà mỗi anh chị em chia sẻ bằng sự hiện diện và lời của Đức Ki-tô ;
b. cổ võ sự tôn trọng lẫn nhau nhờ đó chúng ta chấp nhận cuộc hành trình chậm chạp của những phần tử yếu đuối hơn, đồng thời không bóp nghẹt sự phát triển những cá nhân phong phú hơn ; một sự tôn trọng nuôi dưỡng óc sáng tạo nhưng cũng đòi hỏi trách nhiệm với người khác và với sự liên đới ;
c. nhắm vào sứ vụ chung: mỗi hội dòng có một sứ vụ mà tất cả mọi người phải cộng tác vào tuỳ theo tài năng riêng của mình. Con đường của những người nam và nữ tận hiến hệ tại chính sự hiến dâng dần dần cho Thiên Chúa tất cả những gì họ có, và tất cả con người họ, cho sứ vụ của gia đình tu trì ;
d. nên nhớ rằng sứ vụ tông đồ trước hết được tín thác cho cộng đoàn, và điều này thường đòi hỏi thi hành những công việc phù hợp với hội dòng. Sự cống hiến cho tác vụ tông đồ loại này giúp người tận hiến trưởng thành và lớn lên trong đường lối thánh thiện đặc thù của mỗi người ;
đ. nên biết rằng người tu sĩ, khi vì vâng lời mà nhận lãnh các sứ vụ cá nhân, thì phải nghĩ là mình được cộng đoàn sai đi. Về phần mình, cộng đoàn sẽ phải thường xuyên giúp họ cập nhật hoá và hoà nhập họ vào những cuộc duyệt xét những dấn thân tông đồ và cộng đoàn.
Trong thời gian đào tạo, dù có thiện chí thế nào chăng nữa, một người tận hiến có thể tỏ ra thiếu khả năng hội nhập những hồng ân cá nhân vào tình huynh đệ và sứ vụ chung. Trong những trường hợp như thế, có lẽ cần phải đặt câu hỏi: ”Các hồng ân của Thiên Chúa trong người này có xây dựng sự hiệp nhất và đào sâu sự hiệp thông không ? Nếu có thì có thể đón nhận họ. Nếu không thì dù các hồng ân nơi chính họ có vẻ tốt đẹp thế nào chăng nữa, hoặc cho dù có vẻ là đáng ao ước đối với một vài phần tử, thì họ vẫn không thích hợp cho hội dòng này. Thực là không khôn ngoan khi phải chấp nhận những đường hướng quá khác nhau mà không đặt nền tảng vững chắc trên sự hiệp nhất của chính hội dòng” (55).
41. Những năm gần đây đã gia tăng một số những cộng đoàn nhỏ, đặc biệt vì lý do làm việc tông đồ. Những cộng đoàn này có thể cũng khai triển những mối liên hệ mật thiết hơn giữa các tu sĩ, kinh nguyện được chia sẻ một cách sâu đậm hơn, và đảm nhận trách nhiệm một cách hỗ tương và huynh đệ hơn (56).
Nhưng có vài động lực cần phải được xét lại, như giống nhau về sở thích hoặc giống nhau về não trạng. Trong hoàn cảnh này, cộng đoàn dễ trở nên khép kín lại chính mình, và đi tới chỗ chọn lựa những phần tử riêng cho cộng đoàn, bằng cách chấp nhận hoặc loại bỏ những anh em hay chị em do bề trên gửi tới. Điều này trái ngược với chính bản chất và chức năng của cộng đoàn tu trì như một dấu chỉ. Ngoài việc làm suy yếu tính linh hoạt trong việc tông đồ, sự thuần nhất do chọn lựa sẽ làm suy yếu sức mạnh Thần Khí của cộng đoàn, và làm mất đi thực tại tinh thần, thực tại này điều khiển cộng đoàn bằng sức mạnh của mình như một chứng tá.
Cố gắng chấp nhận lẫn nhau và cam kết vượt qua những khó khăn, những đặc điểm của các cộng đoàn không thuần nhất, cho thấy tính siêu việt trong lý do làm cho cộng đoàn hiện hữu, đó là sức mạnh của Thiên Chúa, một sức mạnh ”tỏ hiện trong sự yếu đuối” (2 Cr 12,9-10).
Chúng ta sống với nhau trong cộng đoàn không phải vì chúng ta đã chọn lựa người khác, nhưng vì chúng ta được Thiên Chúa chọn lựa.
42. Trong khi nền văn hoá mang nhãn hiệu Tây phương có thể dẫn đến chủ nghĩa cá nhân gây khó khăn cho đời sống chung huynh đệ, thì những nền văn hoá khác có thể đưa đến chủ nghĩa cộng đồng khó lòng chấp nhận những dị biệt cá nhân. Tất cả mọi hình thức văn hoá đều cần được phúc âm hoá.
Sự hiện diện của các cộng đoàn tu trì - qua tiến trình hoán cải, bước vào đời sống huynh đệ là nơi những cá nhân sẵn sàng phục vụ anh chị em mình, và là nơi mà ”tập thể” nâng cao cá nhân - là dấu chỉ sức mạnh biến đổi của Tin Mừng và của Nước Thiên Chúa đang đến.
Các hội dòng quốc tế trong đó có nhiều phần tử thuộc những nền văn hoá khác biệt sống chung với nhau, có thể góp phần vào việc trao đổi những ân điển, qua đó họ làm phong phú và sửa đổi lẫn nhau trong ước nguyện chung để càng ngày càng sống Tin Mừng tự do cá nhân và hiệp thông huynh đệ một cách sâu đậm hơn.
Trở thành cộng đoàn nhờ việc huấn luyện liên tục
43. Việc canh tân cộng đoàn đã đem lại lợi ích lớn lao nhờ việc huấn luyện liên tục. Được khuyến cáo và trình bày đại cương trong văn kiện ”Những chỉ dẫn về việc đào tạo trong các hội dòng (57), tất cả những người có trách nhiệm trong các hội dòng đều coi việc huấn luyện liên tục là vấn đề có tầm quan trọng sinh tử đối với tương lai.
Mặc dầu có vài điều không chắc chắn (như khó khăn trong việc tổng hợp những khía cạnh khác biệt, khó khăn trong việc gây ý thức nơi mọi phần tử của cộng đoàn, mải mê với những đòi hỏi của công tác tông đồ, và một sự quân bình đúng mức giữa hoạt động và việc đào tạo), đa số các hội dòng, ở cấp trung ương lẫn địa phương, đều đã có các sáng kiến.
Một trong các mục tiêu của những sáng kiến như vậy là thành lập các cộng đoàn trưởng thành, có tinh thần phúc âm, có tình huynh đệ, và có khả năng tiếp tục việc huấn luyện liên tục trong đời sống thường nhật. Cộng đoàn tu trì là nơi những chỉ dẫn tổng quát được thi hành một cách cụ thể, qua những cố gắng hằng ngày kiên nhẫn và bền bỉ. Đối với mỗi người, cộng đoàn tu trì là nơi và là khung cảnh tự nhiên cho quá trình phát triển, trong đó tất cả mọi người trở nên đồng trách nhiệm đối với sự phát triển của người khác. Cộng đoàn tu trì cũng là nơi mà ngày qua ngày, các phần tử giúp đỡ nhau như những con người đã được thánh hiến, có một đoàn sủng chung, nhằm đáp ứng nhu cầu của những người hèn kém nhất và những thách đố của xã hội mới.
Đứng trước những khó khăn, việc đáp ứng thường khác nhau, và gây những hậu quả hiển nhiên cho đời sống cộng đoàn. Từ đó phát sinh nhận thức rằng một trong những thách đố mạnh mẽ ngày nay là việc hoà nhập các phần tử, được đào tạo khác nhau và có quan điểm tông đồ khác nhau, vào trong một cộng đoàn, để những khác biệt này không trở thành những trường hợp xung khắc cho bằng là những cơ hội làm phong phú lẫn nhau. Trong một khung cảnh đa dạng và có thể thay đổi như thế, thì vai trò quy tụ của những người có trách nhiệm với cộng đoàn trở nên quan trọng hơn bao giờ hết ; cần phải hỗ trợ họ một cách đặc biệt bằng lãnh vực huấn luyện liên tục, theo những đòi hỏi trong phận sự của họ là thúc đẩy đời sống huynh đệ và đời sống tông đồ của cộng đoàn.
Dựa trên kinh nghiệm của những năm gần đây, có hai khía cạnh cần để ý đặc biệt: chiều kích cộng đoàn trong các lời khuyên Phúc Âm và đoàn sủng.
44. Chiều kích cộng đoàn trong các lời khuyên Phúc Âm
Lời tuyên khấn của các tu sĩ diễn tả hồng ân dâng hiến bản thân cho Thiên Chúa và cho Giáo Hội - tuy nhiên đó là hồng ân được sống trong cộng đoàn của một gia đình tu trì. Người tu sĩ không chỉ ”được kêu gọi” đến một ơn gọi riêng cá nhân. Ơn gọi của họ cũng là ”cùng được kêu gọi” - con-vocation -, họ được kêu gọi với những người khác, với những người mà họ chia sẻ đời sống hằng ngày.
Ở đây có sự tập trung những lời thưa ”xin vâng” đối với Thiên Chúa, lời thưa đã hợp nhất số đông tu sĩ vào sống trong một cộng đoàn duy nhất. Cùng được thánh hiến với nhau - nghĩa là được hiệp nhất trong cùng một lời thưa “xin vâng”, được hiệp nhất trong Chúa Thánh Thần - người tu sĩ hằng ngày khám phá ra rằng việc họ theo Chúa Ki-tô, ”vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh”, được sống trong tình huynh đệ, cũng tương tự như các Tông Đồ ngày xưa đã theo Đức Giê-su trong tác vụ của Người. Các Tông Đồ đã hợp nhất với Đức Ki-tô, và vì vậy họ được mời gọi để sống hợp nhất với nhau. Họ được hợp nhất trong sứ mạng loan báo một cách ngôn sứ việc chống lại ngẫu tượng quyền lực, chiếm đoạt và khoái lạc (58).
Như vậy, đức vâng phục ràng buộc những ý muốn khác nhau lại và hợp nhất những ý muốn đó trong một cộng đoàn huynh đệ duy nhất, được trao cho một sứ vụ đặc biệt để chu toàn trong Giáo Hội.
Vâng phục có nghĩa là ”xin vâng” đối với kế hoạch của Thiên Chúa, nhờ đó Người đã ký thác công việc đặc biệt cho một nhóm người. Lời thưa ”xin vâng” ấy gắn liền với sứ vụ, nhưng cũng gắn liền với cộng đoàn, một cộng đoàn phải thực hiện việc phục vụ ở đây, lúc này và với nhau. Lời thưa ”xin vâng” cũng đòi hỏi một cái nhìn đức tin sáng suốt đối với các bề trên, những người ”thực thi nhiệm vụ lãnh đạo và phục vụ” (59) và là những người phải nhận ra sự hài hoà giữa công tác tông đồ và sứ vụ. Chính trong việc họ hiệp thông với nhau mà ý muốn của Thiên Chúa - ý muốn duy nhất có thể cứu chúng ta - được hoàn tất.
Khó nghèo, sự chia sẻ của cải, kể cả những của cải thiêng liêng, ngay từ đầu đã là nền tảng cho sự hiệp thông huynh đệ. Sự khó nghèo của cá nhân các phần tử, gắn liền với một lối sống giản dị và khắc khổ, không những giải thoát người tu sĩ khỏi những bận tâm liên hệ đến quyền sở hữu riêng tư, mà còn làm phong phú cộng đoàn, giúp cộng đoàn phục vụ Thiên Chúa và người nghèo cách hữu hiệu hơn.
Sự khó nghèo bao hàm một chiều kích kinh tế: khả năng quyết định về tiền bạc như là của riêng mình, hoặc cho chính mình hoặc cho các phần tử trong gia đình mình, một lối sống quá khác biệt với các phần tử khác trong cộng đoàn và với mức sống của xã hội mình đang sống - tất cả những điều này đều làm tổn thương và làm suy yếu đời sống huynh đệ.
“Khó nghèo trong tinh thần”, khiêm tốn, đơn giản, nhìn nhận những hồng ân của kẻ khác, đánh giá các thực tại Tin Mừng như là ”đời sống ẩn giấu với Đức Ki-tô trong Thiên Chúa”, kính trọng hy sinh âm thầm, nhìn nhận những người hèn kém nhất, tận tuỵ với những cố gắng cả khi không được biết đến hay không được trả công. Đó là tất cả những khía cạnh kết hợp của đời sống huynh đệ và phát sinh từ lời khấn khó nghèo.
Một cộng đoàn những ”người nghèo” sẽ dễ dàng bày tỏ sự liên đới với người nghèo hơn, và cho thấy trọng tâm của việc Phúc Âm hoá, bởi vì trình bày một cách cụ thể khả năng biến đổi của các mối phúc.
Trong chiều kích cộng đoàn, khiết tịnh được thánh hiến bao gồm cả sự trong sạch tâm hồn, trái tim và thân thể, biểu lộ sự tự do lớn lao để yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tất cả những gì thuộc về Người, bằng một tình yêu không chia sẻ, và như vậy, có thể dốc toàn lực để yêu mến và phục vụ tha nhân, làm cho tình yêu của Đức Ki-tô hiện diện. Không ích kỷ cũng không độc quyền, không chiếm hữu cũng không nô lệ đam mê, nhưng phổ quát và vô vị lợi, tự do và giải thoát - điều cần thiết cho sứ vụ - tình yêu này được vun trồng và lớn lên qua đời sống huynh đệ. Như thế, những ai sống đời độc thân thánh hiến ”nhắc mọi người nhớ sự kết hiệp lạ lùng mà Thiên Chúa đã thực hiện, và sẽ tỏ lộ đầy đủ ở đời sau, và trong sự kết hiệp ấy, Hội Thánh nhận Đức Ki-tô là Đấng Lang Quân độc nhất của mình” (60).
Chiều kích cộng đoàn của các lời khấn dòng cần phải được tiếp tục nuôi dưỡng và đào sâu, vì đó là một tiến trình mang tính chất huấn luyện liên tục.
45. Đoàn sủng
Đây là khía cạnh thứ hai của việc huấn luyện liên tục mà chúng ta phải đặc biệt lưu tâm để cổ võ sự phát triển đời sống huynh đệ.
“Sự thánh hiến tu trì thiết lập mối hiệp thông đặc thù giữa người tu sĩ với Thiên Chúa và, trong Người, giữa các phần tử của cùng một hội dòng... Tuy nhiên, nền tảng của sự hiệp nhất là sự hiệp thông trong Đức Ki-tô được củng cố bởi đoàn sủng duy nhất của đấng sáng lập” (61). Vì thế, việc quy chiếu về vị sáng lập dòng, và về đoàn sủng mà vị ấy đã sống và thông truyền, gìn giữ và phát triển qua suốt cuộc sống của hội dòng (62), được coi là yếu tố thiết yếu cho sự hiệp nhất của cộng đoàn.
Sống trong cộng đoàn là cùng nhau sống thánh ý Thiên Chúa phù hợp với đường hướng của đoàn sủng mà vị sáng lập đã nhận được từ Thiên Chúa và truyền lại cho các đồ đệ và những người tiếp bước các ngài.
Trong những năm gần đây, khi nhấn mạnh tầm quan trọng của đoàn sủng nguyên thuỷ nhờ suy tư thần học phong phú (63), cuộc canh tân đã cổ võ sự hiệp nhất cộng đoàn, sự hiệp nhất được coi như nơi tiếp nhận cùng một hồng ân của Chúa Thánh Thần, một hồng ân phải được chia sẻ cho các anh chị em, và nhờ đó có thể làm phong phú Giáo Hội ”cho trần gian được sống”. Vì lý do đó, chương trình đào tạo sẽ đặc biệt hữu ích khi bao gồm những khoá học đều đặn và suy tư trong cầu nguyện về vị sáng lập, về đặc sủng và hiến pháp của hội dòng.
Sự hiểu biết sâu xa về đoàn sủng đưa đến cái nhìn rõ rệt hơn về căn tính riêng của hội dòng ; xoay quanh căn tính đó, việc xây dựng sự hiệp nhất và hiệp thông sẽ dễ dàng hơn. Việc nắm bắt sáng suốt căn tính đoàn sủng của hội dòng làm nảy sinh những điều chỉnh có tính sáng tạo đối với những hoàn cảnh mới, và điều này đưa tới những triển vọng tích cực cho tương lai của hội dòng.
Thiếu sáng suốt trong lãnh vực này có thể dễ gây ra sự bất ổn cho các mục tiêu và tổn thương cho những hoàn cảnh chung quanh đời tu, những luồng văn hoá và những nhu cầu tông đồ khác ; thậm chí còn có thể làm cho công cuộc thích nghi và canh tân không thực hiện được.
46. Do đó cần phải phát triển căn tính đoàn sủng riêng của hội dòng, nhất là để tránh một thứ ”đại loại” (genericism), vốn là mối đe doạ thực sự cho sức sống của cộng đoàn tu trì.
Trong những năm gần đây, có một vài nhân tố đã, và trong một vài trường hợp, vẫn còn tiếp tục gây ra đau khổ cho cộng đoàn tu trì, chẳng hạn:
một đường hướng ”đại loại” (chung chung) - hay nói cách khác, một đường hướng thiếu trung gian đặc loại của đoàn sủng mình - khi chỉ để ý đến một số chỉ dẫn nào đó của Giáo Hội địa phương hay một số gợi ý nào đó rút ra từ các linh đạo khác nhau ;
một thứ dấn thân trong các phong trào của Giáo Hội, đặt cá nhân người tu sĩ vào hiện tượng mơ hồ là ”thành viên lưỡng diện” ;
trong mối liên hệ thiết yếu và đôi khi đầy hiệu quả với giáo dân, đặc biệt với các cộng tác viên giáo dân, có một sự thích nghi nào đó đối với não trạng giáo dân. Thay vì trao ban chứng tá tu trì của mình như một hồng ân huynh đệ để cổ võ cho chân tính Ki-tô giáo, họ lại chỉ bắt chước giáo dân, theo lối nhìn và hoạt động của giáo dân, vì vậy làm suy yếu phần đóng góp của sự tận hiến ;
một sự thích nghi quá mức theo những đòi hỏi của gia đình, theo những lý tưởng của quốc gia, chủng tộc hay thị tộc, hoặc một vài nhóm xã hội, có nguy cơ bóp méo đoàn sủng cho hợp với địa vị hay lợi lộc riêng.
Chủ nghĩa đại loại, một chủ nghĩa giản lược đời tu vào một mẫu số chung thấp nhất và không còn sắc thái, dẫn tới việc tiêu diệt vẻ đẹp và hiệu quả của những đoàn sủng vừa nhiều vừa khác biệt đã được Chúa Thánh Thần khơi dậy.
Quyền bính để phục vụ tình huynh đệ
47. Nói chung, người ta đồng ý rằng sự phát triển trong những năm gần đây đã đóng góp vào sự trưởng thành đời sống huynh đệ trong các cộng đoàn. Trong nhiều cộng đoàn, bầu khí đời sống chung đã được cải thiện: có nhiều chỗ cho mọi người tích cực tham gia ; đã có sự chuyển biến từ một đời sống chung dựa quá nhiều vào việc giữ luật đến một đời sống lưu tâm nhiều hơn đến những nhu cầu cá nhân, nghĩa là chú trọng hơn tới con người. Nỗ lực xây dựng những cộng đoàn bớt vụ hình thức, bớt độc đoán, thêm tình huynh đệ và thêm sự tham gia, là điều nhìn chung được coi là một trong những kết quả dễ nhận thấy hơn trong những năm gần đây.
48. Ở vài nơi, những phát triển tích cực này có nguy cơ bị tổn thương do thiếu tin tưởng vào quyền bính.
Ước vọng có sự hiệp thông sâu xa hơn giữa các phần tử và một phản ứng tất nhiên chống lại những cơ cấu được coi là quá cứng nhắc và độc đoán đã góp phần làm thiếu hiểu biết phạm vi đầy đủ của vai trò quyền bính ; thực vậy, một số người coi quyền bính là hoàn toàn không cần thiết cho đời sống cộng đoàn, một số khác lại giản lược vào vai trò thuần tuý phối hợp những sáng kiến của các phần tử. Kết quả, một số cộng đoàn đi đến chỗ sống không có người phụ trách, trong khi ở các cộng đoàn khác, mọi quyết định đều có tính cách tập thể. Tất cả những điều đó đều đưa đến nguy cơ - không phải chỉ là giả thuyết - đổ vỡ đời sống cộng đoàn hoàn toàn, chủ ý nhắm ưu tiên cho những đường lối cá nhân, và đồng thời làm lu mờ chức năng của quyền bính, một chức năng vừa cần thiết cho sự thăng tiến đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, vừa cần thiết cho hành trình thiêng liêng của người tận hiến.
Tuy nhiên, kết quả của những thử nghiệm này dần dần đưa tới việc tái khám phá nhu cầu và vai trò quyền bính cá nhân, nối tiếp toàn bộ truyền thống đời tu.
Nếu bầu khí dân chủ lan rộng đã khuyến khích sự phát triển tinh thần đồng trách nhiệm và sự tham gia của mọi người trong tiến trình quyết định, ngay cả trong đời tu, thì chúng ta đừng quên rằng tình huynh đệ không phải chỉ là kết quả của cố gắng nhân loại, nhưng cũng là, và trên hết, là một hồng ân của Thiên Chúa. Đó là một hồng ân do tuân phục Lời Thiên Chúa, và trong đời tu, cũng là tuân phục quyền bính, nó nhắc nhở chúng ta về Lời đó và hướng về Lời trong những hoàn cảnh đặc biệt, phù hợp với tinh thần của hội dòng.
“Thưa anh em, chúng tôi xin anh em hãy quý trọng những ai đang vất vả vì anh em, để lãnh đạo anh em nhân danh Chúa và khuyên bảo anh em. Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy, vì công việc họ làm” (1 Tx 5,12-13). Cộng đoàn Ki-tô hữu không phải là một tập thể vô danh, nhưng ngay từ lúc đầu, họ đã có các vị lãnh đạo là những người mà thánh Tông Đồ muốn mọi người phải lưu tâm, kính trọng và yêu mến.
Trong các cộng đoàn tu trì, các vị hữu trách, những người được quan tâm và kính trọng cũng do lời khấn vâng phục, được đặt lên để phục vụ tình huynh đệ, để phát triển, để hoàn thành những mục tiêu thiêng liêng và tông đồ.
49. Cuộc canh tân mới đây đã giúp tái phác hoạ quyền bính với ý định liên kết quyền bính một lần nữa mật thiết hơn với các nguồn gốc Tin Mừng và, do đó, liên kết với việc phục vụ sự tiến bộ thiêng liêng của mỗi người và phát triển tình huynh đệ trong cộng đoàn.
Mỗi cộng đoàn có một sứ vụ riêng phải chu toàn. Vì thế, các vị hữu trách phục vụ cộng đoàn là những người phải chu toàn một sứ vụ riêng biệt, được hội dòng và đoàn sủng của hội dòng tiếp nhận và xác định. Ở đâu có sự đa dạng về sứ vụ, ở đó cũng phải có những loại cộng đoàn khác nhau, và vì vậy, có những cách thực thi quyền bính khác nhau. Do đó, đời tu có những quan điểm và đường lối thi hành quyền bính khác nhau, được quy định trong luật riêng.
Theo tinh thần Tin Mừng, quyền bính luôn luôn là để phục vụ.
50. Cuộc canh tân trong những năm gần đây đã nêu bật một vài khía cạnh của quyền bính:
a. Quyền bính về tâm linh
Nếu những người tận hiến đã dâng hiến bản thân để hoàn toàn phụng sự Thiên Chúa, thì quyền bính cổ võ và nâng đỡ sự tận hiến của họ. Theo một nghĩa nào đó, quyền bính có thể được coi là ”tôi tớ của các tôi tớ Thiên Chúa”. Nhiệm vụ chính của quyền bính là xây dựng, trong sự hiệp nhất anh chị em, một ”cộng đoàn huynh đệ trong đó mọi người tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự” (64). Do đó, trước hết, bề trên phải là một người tâm linh, xác tín tính ưu việt của khía cạnh tâm linh, vừa liên quan tới đời sống cá nhân lẫn sự phát triển đời sống huynh đệ ; nói cách khác, vị ấy phải biết rằng tình yêu Thiên Chúa càng tăng lên trong tâm hồn mỗi cá nhân, thì càng có sự hiệp nhất giữa các tâm hồn hơn.
Như thế, nhiệm vụ chính của bề trên là vị linh hoạt đời sống tâm linh, cộng đoàn và tông đồ của cộng đoàn mình.
b. Quyền bính kiến tạo sự hiệp nhất
Quyền bính kiến tạo sự hiệp nhất là một quyền bính quan tâm lo sáng tạo bầu khí thích hợp cho sự chia sẻ và tinh thần đồng trách nhiệm: khuyến khích mọi người đóng góp vào công việc chung, cổ võ các phần tử đảm nhận và tôn trọng trách nhiệm ; qua sự lưu tâm đến con người, cổ võ đức tuân phục tự nguyện (65), sẵn lòng lắng nghe các phần tử, xúc tiến sự cộng tác hài hoà vì lợi ích của hội dòng và của Giáo Hội (66) ; tham gia đối thoại và tạo những cơ hội gặp gỡ thuận tiện ; đem lại sự can đảm và hy vọng trong những lúc khó khăn ; dự đoán và vạch ra những chân trời mới cho sứ vụ. Hơn nữa, quyền bính còn phải tìm cách duy trì sự quân bình giữa những khía cạnh khác nhau của đời sống cộng đoàn - giữa cầu nguyện và làm việc, tác vụ tông đồ và việc huấn luyện, làm việc và nghỉ ngơi.
Quyền bính của một bề trên phải tác động thế nào để cho nhà dòng không chỉ là một nơi trú ngụ, tập hợp một số người sống riêng rẽ, nhưng là một ”cộng đoàn huynh đệ trong Đức Ki-tô” (67).
c. Quyền bính có khả năng quyết định cuối cùng và bảo đảm việc chấp hành
Sự phân định của cộng đoàn là một tiến trình khá hữu ích mặc dù không dễ dàng hay đương nhiên, vì nó liên quan đến khả năng của con người, sự khôn ngoan thiêng liêng, và sự khách quan. Nơi nào được thực hiện với đức tin và sự nghiêm túc, thì nơi đó sự phân định của cộng đoàn có thể cung cấp cho các bề trên những điều kiện thuận lợi để đi tới những quyết định cần thiết cho lợi ích tối hảo của đời sống huynh đệ và sứ vụ.
Khi một quyết định đã được đưa ra thực hiện theo đúng thủ tục do luật riêng ấn định, các bề trên cần nhiều kiên nhẫn và can đảm để bảo đảm rằng những gì đã được quyết định không chỉ là những chữ viết ghi trên giấy tờ.
51. Luật riêng của mỗi hội dòng cũng phải xác định càng rõ càng tốt thẩm quyền liên hệ của cộng đoàn, của những hội đồng khác nhau, của những vị điều phối các ban ngành và của bề trên. Một cái nhìn thiếu sáng suốt trong lãnh vực này sẽ là đầu mối gây ra lộn xộn và xung đột.
“Những dự phóng cộng đoàn” có thể giúp gia tăng việc tham gia vào đời sống cộng đoàn và vào sứ vụ trong những bối cảnh khác nhau, cũng phải lưu ý xác định rõ vai trò và thẩm quyền của các vị hữu trách, phù hợp với hiến pháp.
52. Các cộng đoàn huynh đệ và hiệp nhất ngày càng được mời gọi trở thành yếu tố quan trọng và đầy sức thuyết phục đối với nền văn hoá phản Tin Mừng, các cộng đoàn này là muối của trần gian và ánh sáng cho đời.
Do đó, chẳng hạn, nếu trong xã hội Tây phương, nơi chủ nghĩa cá nhân lan tràn, thì cộng đoàn tu trì được mời gọi trở thành dấu chỉ ngôn sứ cho khả năng kiến tạo tình huynh đệ và liên đới trong Đức Ki-tô ; trong những nền văn hoá mà chủ nghĩa độc tài hay chủ nghĩa cộng đồng lan tràn thì cộng đoàn được mời gọi để trở thành dấu chỉ tôn trọng và cổ võ quyền con người, và cũng là lời mời gọi thi hành quyền bính phù hợp với ý Thiên Chúa.
Trong khi các cộng đoàn tu trì phải tham dự vào nền văn hoá nơi họ sống, họ cũng được mời gọi để thanh tẩy và nâng cao nền văn hoá đó, nhờ muối và ánh sáng của Tin Mừng, qua các cộng đoàn, đem lại một tổng hợp cụ thể về cái không chỉ là Phúc Âm hoá nền văn hoá (evangelization of culture), mà còn là Phúc Âm hoá việc hội nhập văn hoá (evangelizing inculturation) và việc Phúc Âm hoá được hội nhập văn hoá (inculturated evangelization).
53. Sau cùng, chúng ta không bao giờ được quên một vấn đề thường gây đau khổ, phức tạp và tế nhị, đó là đức tin đóng vai trò quyết định giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm cứu độ của đức tuân phục (68). Cũng như vì sự bất tuân của một người đưa đến sự tan rã của gia đình nhân loại, và sự tuân phục của Con Người Mới đã khởi đầu công cuộc tái tạo (x. Rm 5,19), thì thái độ tuân phục sẽ luôn luôn là một sức mạnh thiết yếu cho mọi cuộc sống gia đình.
Đời sống tu trì luôn sống nhờ xác tín này của đức tin, và được mời gọi để cũng sống theo xác tín đó hôm nay, với lòng can đảm để không chạy theo việc tìm kiếm những tương quan huynh đệ một cách vô ích, và để trở nên một thực tại Phúc Âm thích hợp trong Giáo Hội và trong xã hội.
54. Tình huynh đệ như là dấu chỉ
Mối tương quan giữa đời sống huynh đệ và hoạt động tông đồ, đặc biệt trong những hội dòng dấn thân vào công tác tông đồ, không luôn luôn rõ rệt, và rất thường dẫn đến sự căng thẳng cho cá nhân lẫn cộng đoàn. Đối với một số người, việc ”xây dựng cộng đoàn” bị coi là trở ngại cho sứ vụ, gần như hoang phí thời giờ trong những vấn đề thứ yếu. Mọi người phải nhớ rằng sự hiệp thông huynh đệ như thế đã là một tác vụ tông đồ rồi. Nói cách khác, nó đóng góp trực tiếp cho công cuộc Phúc Âm hoá. Dấu chỉ tuyệt hảo mà Chúa đã để lại cho chúng ta là dấu chỉ của tình huynh đệ sống động : ”Do điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau” (x. Ga 13,35).
Cùng với việc sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật (Mt 28,19-20), Chúa đã sai các ông sống với nhau ”để thế gian tin” rằng Đức Giê-su là Đấng được Chúa Cha sai đến và để chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào Người (Ga 17,21). Dấu chỉ của tình huynh đệ là điều rất hệ trọng, vì là dấu chỉ cho thấy nguồn gốc siêu nhiên của sứ điệp Ki-tô giáo, và có năng lực mở lòng đón nhận đức tin. Vì thế, ”hiệu quả của đời tu tuỳ thuộc vào phẩm chất của đời sống huynh đệ cộng đoàn” (69).
55. Một cộng đoàn tu trì, tuỳ mức độ cổ võ đời sống huynh đệ trong các phần tử của mình, là sự thể hiện một cách liên tục và rõ ràng ”dấu chỉ” này, dấu chỉ mà Giáo Hội cần nhất trong nhiệm vụ tái Phúc Âm hoá của mình.
Cũng vì lý do đó, Giáo Hội tin tưởng vào đời sống huynh đệ của các cộng đoàn tu trì: tình huynh đệ càng thắm thiết thì sự tin tưởng vào sứ điệp mà Giáo Hội công bố càng gia tăng, và trung tâm của mầu nhiệm Giáo Hội, bí tích hiệp nhất nhân loại với Thiên Chúa và hiệp nhất các phần tử với nhau, càng hiện rõ hơn (70). Đời sống huynh đệ không phải là ”bổ túc” cho sứ vụ của cộng đoàn tu trì, nhưng là một yếu tố nòng cốt. Đời sống huynh đệ cũng quan trọng như đời sống tông đồ.
Vì thế, không thể viện lẽ những nhu cầu của việc phục vụ tông đồ để chấp nhận hay biện minh cho sự khiếm khuyết đời sống cộng đoàn. Hoạt động của tu sĩ phải là hoạt động của người sống trong cộng đoàn, và chu toàn hoạt động đó với tinh thần của cộng đoàn bằng lời nói, hành động và gương sáng.
Trong những trường hợp đặc biệt, chúng ta sẽ xem xét sau, có thể cần có những điều chỉnh, nhưng không được cho phép một tu sĩ sống ngoài sự hiệp thông và tinh thần của cộng đoàn mình.
56. Khi ý thức trách nhiệm của mình đối với tình huynh đệ rộng lớn trong Giáo Hội, các cộng đoàn tu sĩ cũng trở nên dấu chỉ về khả năng sống tình huynh đệ Ki-tô giáo và về cái giá phải trả để xây dựng bất cứ hình thức đời sống huynh đệ nào.
Hơn nữa, trong bối cảnh những xã hội khác nhau trên hành tinh chúng ta - bị xâu xé bởi những thế lực phân rẽ do đam mê và xung đột quyền lợi, khao khát hiệp nhất nhưng không biết đường nào chắc chắn để theo - sự hiện diện của các cộng đoàn có những con người khác nhau về tuổi tác, ngôn ngữ và văn hoá, gặp gỡ nhau như anh chị em, mà vẫn hiệp nhất mặc dù có những xung khắc không thể tránh được, cũng như những khó khăn cố hữu trong đời sống chung, tự nó là một dấu chỉ làm chứng cho một thực tại cao hơn và cho thấy những khát vọng cao hơn:
“Nhờ đời sống loan báo niềm vui và các giá trị siêu nhiên cũng như tự nhiên của tình huynh đệ Ki-tô giáo, các cộng đoàn tu trì công bố cho xã hội chúng ta thấy sức mạnh biến đổi của Tin Mừng” (71).
“Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái, đó là mối dây tuyệt hảo liên kết anh em” (Cl 3,12), đó là tình bác ái Đức Giê-su đã dạy, đã sống và đã truyền đạt cho chúng ta nhờ Thánh Thần. Tình yêu hiệp nhất này cũng là tình yêu khiến chúng ta trải rộng tới người khác kinh nghiệm hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau. Nói cách khác, tình yêu này tạo nên những vị tông đồ bằng cách thúc đẩy các cộng đoàn trên nẻo đường sứ vụ, dù đó là việc chiêm niệm, loan truyền Lời Chúa hay làm việc từ thiện. Thiên Chúa muốn làm cho trần gian tràn ngập tình yêu của Người ; bởi thế, các cộng đoàn huynh đệ trở nên những người thừa sai của tình yêu này, và trở thành những dấu chỉ ngôn sứ cho sức mạnh hiệp nhất của tình yêu ấy.
57. Phẩm chất đời sống huynh đệ có ảnh hưởng quan trọng đối với sự bền chí của cá nhân tu sĩ. Phẩm chất nghèo nàn của đời sống huynh đệ vẫn thường được coi là lý do để bỏ đời tu thế nào, thì sống sung mãn tình huynh đệ thường và vẫn là một sự nâng đỡ quý giá cho sự kiên trì của nhiều người như thế.
Trong một cộng đoàn huynh đệ chân chính, mỗi phần tử đều phải có tinh thần đồng trách nhiệm đối với sự trung thành của những người khác. Mỗi người đóng góp cho bầu khí thanh bình của đời sống chia sẻ, của sự hiểu biết và sự trợ giúp hỗ tương, mỗi người lưu tâm đến những lúc chán nản, đau khổ, cô đơn hay những lúc thiếu sự động viên nơi những người khác ; mỗi người sẵn sàng nâng đỡ những ai bị buồn sầu vì những khó khăn và thử thách.
Như vậy, các cộng đoàn tu trì, khi nâng đỡ sự bền chí của các phần tử, cũng có giá trị là dấu chỉ của lòng thành tín vĩnh tồn nơi Thiên Chúa, và như vậy, trở nên cột trụ chống đỡ đức tin và sự trung tín của các Ki-tô hữu đang bị nhận chìm giữa bao biến cố cuộc đời, nơi các nẻo đường thành tín xem ra càng ngày càng bị lãng quên.
CHƯƠNG III: CỘNG ĐOÀN TU TRÌ, ĐỊA ĐIỂM VÀ CHỦ THỂ THI HÀNH SỨ VỤ
58. Như Thánh Thần xức dầu cho Giáo Hội trong phòng Tiệc Ly để sai Giáo Hội đi rao giảng Tin Mừng khắp thế giới, thì mỗi cộng đoàn tu trì, như là một cộng đoàn thần khí đích thực của Đấng Phục Sinh, cũng là cộng đoàn tông đồ theo đúng bản chất của mình.
Thực vậy, ”hiệp thông phát sinh hiệp thông: tự bản chất sự hiệp thông được liên kết với sứ vụ nhân danh sự hiệp thông... Hiệp thông và sứ vụ liên kết chặt chẽ với nhau, cả hai thấm nhập và bao hàm lẫn nhau, đến nỗi sự hiệp thông tượng trưng cho cả nguồn mạch và kết quả của sứ vụ: hiệp thông làm phát sinh sứ vụ và sứ vụ được hoàn thành nhờ hiệp thông” (72).
Không có một cộng đoàn tu trì nào, ngay cả những cộng đoàn chuyên chiêm niệm, được co cụm lại chính mình.
Đúng hơn, cộng đoàn là loan báo, phục vụ (diakonia), và là chứng tá ngôn sứ. Đấng Phục Sinh, đang sống trong cộng đoàn, đang thông ban Thần Khí của Người cho cộng đoàn, đã làm cho cộng đoàn trở thành chứng nhân của sự phục sinh.
Cộng đoàn tu trì và sứ vụ
Trước khi suy tư về một vài hoàn cảnh đặc biệt mà, để trung thành với sứ vụ chuyên biệt của mình, một cộng đoàn tu trì ngày nay phải đương đầu trong những hoàn cảnh khác nhau trên khắp thế giới, thật là hữu ích cho chúng ta khi tìm hiểu ở đây mối tương quan đặc biệt giữa những loại cộng đoàn tu trì khác nhau và sứ vụ họ được kêu gọi để thi hành.
59. a/. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã tuyên bố: ”Các tu sĩ phải đem hết tâm lực làm cho Giáo Hội, qua con người của họ, thực sự biểu dương Đức Ki-tô ngày một hoàn hảo hơn cho các tín hữu cũng như cho lương dân, biểu dương Chúa Ki-tô đang cầu nguyện trên núi, hoặc đang loan báo Nước Thiên Chúa cho dân chúng, hoặc chữa lành những kẻ đau yếu tật nguyền, hay hoán cải các tội nhân trở lại đời sống phong phú, hoặc đang chúc phúc cho các trẻ em, ban ơn lành cho mọi người và luôn luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Người đến” (73).
Do tham dự vào những khía cạnh khác nhau của sứ vụ Đức Ki-tô, Thánh Thần làm phát sinh những dòng tu khác nhau, xác định đặc tính của họ bằng những sứ vụ khác nhau, và do đó, bằng những loại cộng đoàn khác nhau.
b/. Kiểu mẫu cộng đoàn chiệm niệm (biểu dương Đức Ki-tô trên núi) thì tập trung vào sự hiệp thông hai chiều với Thiên Chúa và với các phần tử trong cộng đoàn. Kiểu mẫu này có ảnh hưởng tông đồ hữu hiệu nhất, mặc dù vẫn còn khoảng cách giấu ẩn lớn trong mầu nhiệm. Cộng đoàn tu trì ”tông đồ” (biểu dương Đức Ki-tô ở giữa dân chúng) được thánh hiến để phục vụ tha nhân một cách sống động, một công việc phục vụ chuyên biệt phát xuất từ đoàn sủng riêng biệt.
Trong số ”những cộng đoàn tông đồ”, một số cộng đoàn nhấn mạnh nhiều vào đời sống chung đến nỗi sứ vụ tông đồ của họ tuỳ thuộc vào khả năng hình thành cộng đoàn. Những cộng đoàn khác thì quyết định hướng về sứ vụ, và đối với họ, kiểu mẫu cộng đoàn tuỳ thuộc vào loại hình sứ vụ. Các hội dòng rõ ràng được tổ chức theo những hình thức đặc biệt của công việc tông đồ thì nhấn mạnh đến sự ưu tiên của toàn thể gia đình tu trì, xét như là một thân thể mang tính tông đồ, và một cộng đoàn rộng lớn được Thánh Thần trao ban sứ vụ phải thi hành trong Giáo Hội. Sự hiệp thông làm sống động và quy tụ đại gia đình lại được sống một cách cụ thể trong những cộng đoàn nhỏ ở địa phương, là những cộng đoàn được giao phó thi hành sứ vụ tuỳ theo những nhu cầu khác nhau.
Như vậy, đã có những loại cộng đoàn tu trì khác nhau lưu truyền qua nhiều thế kỷ, chẳng hạn như các đan viện, tu viện, và các cộng đoàn hoạt động hay ”phục vụ” (diaconal).
Do đó ”đời sống chung trong cộng đoàn” không có cùng một ý nghĩa đối với tất cả mọi tu sĩ. Các đan sĩ, các tu sĩ và các phần tử sống đời hoạt động duy trì những khác biệt hợp pháp trong cách hiểu và sống cộng đoàn tu trì.
Sự khác biệt này được trình bày trong hiến pháp của các hội dòng, hiến pháp phác hoạ đặc tính của hội dòng, và hậu nhiên phác hoạ đặc tính của cộng đoàn.
c/. Nói chung, đặc biệt đối với những cộng đoàn tu trì chuyên hoạt động tông đồ, người ta thấy, theo kinh nghiệm hằng ngày, có đôi chút khó khăn khi phải hoà hợp những đòi hỏi của đời sống cộng đoàn với công việc tông đồ. Nếu có nguy cơ đối nghịch giữa hai khía cạnh này thì cũng sẽ có khó khăn khi phải hoà hợp chúng lại với nhau. Đây cũng là một chiều hướng ích lợi cho đời tu là đời sống nhằm vun trồng đồng thời cả lối sống của người môn đệ>, phải sống với Đức Giê-su và với đám đông đi theo Người, và lối sống của người tông đồ, phải tham gia vào sứ vụ của Chúa.
d/. Trong những năm gần đây, nhu cầu tông đồ rất đa dạng thường đưa đến việc cùng tồn tại trong một hội dòng những cộng đoàn khác biệt nhau đáng kể, những cộng đoàn lớn và có cơ cấu chặt chẽ hơn hiện hữu bên cạnh cộng đoàn nhỏ hơn, linh động hơn, nhưng vẫn không đánh mất đi tính chất cộng đoàn đích thực của đời tu.
Tất cả những điều này xem ra ảnh hưởng lớn đối với đời sống và bản chất của hội dòng, mà ngày nay không còn chặt chẽ như ngày xưa, nhưng đa dạng hơn và có nhiều cách khác nhau để sống cộng đoàn tu trì.
đ/. Trong một vài hội dòng, khuynh hướng nhấn mạnh đến sứ vụ hơn là cộng đoàn, và khuynh hướng cổ võ sự khác biệt hơn là sự hiệp nhất, đã tác động sâu xa đến đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, đến nỗi đôi khi trở thành một điều nhiệm ý hơn là một thành phần toàn vẹn của đời tu.
Hệ quả của điều này chắc chắn không có tính cách tích cực ; những hệ quả ấy khiến chúng ta đặt ra những câu hỏi nghiêm chỉnh là không biết có thích hợp để tiếp tục đi theo chiều hướng này không, và gợi ra yêu cầu phải xây dựng một đường lối tái khám phá sự liên kết mật thiết giữa cộng đoàn và sứ vụ, để vượt qua một cách sáng tạo những khuynh hướng đơn phương bao giờ cũng làm cạn kiệt thực tại phong phú của đời tu.
Trong Giáo Hội địa phương
60. Sự hiện diện có tính truyền giáo của một cộng đoàn tu trì được phát triển trong khung cảnh của một Giáo Hội địa phương. Các phần tử của cộng đoàn đem lại cho Giáo Hội đó sự phong phú của đời thánh hiến, của tình huynh đệ và đoàn sủng của mình.
Nguyên bằng sự hiện diện của mình, một cộng đoàn tu trì không chỉ mang trong mình sự phong phú của đời sống Ki-tô hữu mà thôi, nhưng vì là một đơn vị, cộng đoàn làm thành lời loan báo sứ điệp Ki-tô giáo cách đặc biệt hiệu nghiệm. Có thể nói đó là một lời rao giảng sống động và liên tục. Điều kiện khách quan này rõ rệt buộc chính các tu sĩ phải chịu trách nhiệm, trong khi kêu gọi họ trung thành với sứ vụ ưu tiên này, trong khi sửa sai và loại trừ những gì có thể làm suy yếu sức lôi cuốn nơi gương sáng của họ, làm cho sự hiện diện của họ nơi Giáo Hội địa phương dễ nhận ra và quý giá hơn bất cứ một thẩm định nào khác.
Vì đức ái là đoàn sủng lớn nhất (x. 1 Cr 13,13), nên một cộng đoàn tu trì làm phong phú cho Giáo Hội mà mình là thành phần sống động, trước hết bằng lòng mến của mình. Cộng đoàn tu trì yêu mến Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương nơi cộng đoàn tháp nhập, vì chính trong Giáo Hội và như Giáo Hội mà cộng đoàn gắn bó với sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh, nguồn mạch mọi sự lành. Trong cách này, cộng đoàn đặc biệt biểu lộ chính bản chất của Giáo Hội.
Một cộng đoàn tu trì yêu mến Giáo Hội địa phương, sẽ làm phong phú cho Giáo Hội đó bằng đoàn sủng của mình và mở ra cho Giáo Hội đó một chiều kích phổ quát hơn. Văn kiện Những liên hệ hỗ tương (Mutuae Relationes) đã đề cập đến mối tương quan tinh tế giữa những nhu cầu mục vụ của Giáo Hội địa phương với tính chất riêng biệt trong đoàn sủng của cộng đoàn tu trì. Thêm vào những chiều kích thần học và mục vụ, văn kiện này đã góp phần quan trọng cho sự cộng tác thân thiện và mật thiết hơn. Thời gian đã đưa đến một cách nhìn khác về văn kiện, nhằm đi đến bước đột phá mới cho tinh thần hiệp thông đích thực giữa cộng đoàn tu trì và Giáo Hội địa phương.
Những khó khăn đang gia tăng và việc thiếu nhân sự trong hoạt động sứ vụ cám dỗ cả cộng đoàn tu trì và Giáo Hội địa phương rơi vào tình trạng cô lập nào đó, dĩ nhiên điều này không cải thiện sự hiểu biết và hợp tác hỗ tương chút nào.
Cộng đoàn tu trì có nguy cơ là một đàng hiện diện ở địa phương mà không gắn bó với đời sống hoặc chương trình mục vụ của Giáo Hội đó, đàng khác chỉ giản lược vào các phận sự mục vụ mà thôi. Ngoài ra, nếu đời sống tu trì càng ngày càng có khuynh hướng nhấn mạnh đến căn tính đoàn sủng riêng, thì Giáo Hội địa phương thường ép buộc và đòi hỏi năng lực của các tu sĩ trong những hoạt động mục vụ của giáo phận hay giáo xứ. Những chỉ dẫn mà <%3>văn kiện ”Những liên hệ hỗ tương” đưa ra, giúp cộng đoàn tu trì khỏi tách rời hay đứng độc lập trong tương quan với Giáo Hội địa phương, và khỏi đồng hoá trong thực tiễn với Giáo Hội địa phương.
Một cộng đoàn tu trì không thể hoạt động độc lập với Giáo Hội địa phương, hay thay thế Giáo Hội địa phương hoặc là ít nhiều chống lại những chỉ thị và chương trình mục vụ của Giáo Hội địa phương. Tương tự như vậy, Giáo Hội địa phương cũng không thể theo những sở thích và những nhu cầu riêng mà áp đặt quyết định của mình đối với cộng đoàn tu trì hay bất cứ phần tử nào của cộng đoàn đó.
Điều quan trọng cần nhắc lại là thiếu hiểu biết đúng đắn về đoàn sủng của cộng đoàn tu trì sẽ không thể phục vụ cho thiện ích của Giáo Hội địa phương cũng như cho ích lợi của chính cộng đoàn tu trì. Chỉ khi nào một cộng đoàn tu trì xác định rõ rệt căn tính đoàn sủng của mình, khi ấy cộng đoàn mới có thể tự hội nhập vào ”chương trình mục vụ tổng quát” mà không đánh mất đặc tính riêng của mình. Thực vậy, chỉ với đường hướng đó, cộng đoàn mới có thể làm cho những chương trình mục vụ thêm phong phú với ân điển của mình.
Chúng ta không nên quên rằng, mọi đoàn sủng phát sinh trong Giáo Hội và cho thế giới, và sự liên kết với nguồn mạch và mục đích của đoàn sủng đó, cần phải được đổi mới thường xuyên ; mỗi đoàn sủng sống động tuỳ theo mức độ người ta trung thành với đoàn sủng ấy.
Giáo Hội và thế giới là khung cảnh để giải thích, đòi hỏi, và thúc đẩy đoàn sủng tiếp tục phát triển tương xứng và sống động. Đoàn sủng và Giáo Hội địa phương không được xung khắc với nhau, nhưng đúng hơn, phải nâng đỡ và hoàn thiện lẫn nhau, đặc biệt vì ngày nay đang phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến việc sống đoàn sủng và hội nhập đoàn sủng vào những hoàn cảnh thay đổi.
Nguồn gốc của nhiều hiểu lầm có lẽ là sự hiểu biết lẫn nhau một cách phiến diện hoặc là về phía Giáo Hội địa phương, hoặc là về phía đời sống tu trì, và về phía trách nhiệm của giám mục đối với đời tu.
Chúng tôi tha thiết xin tất cả các chủng viện giáo phận đưa vào chương trình học thần học cả những môn đặc biệt về thần học đời sống thánh hiến, nghiên cứu về khía cạnh tín lý, luật pháp, và mục vụ của đời sống đó nữa ; về phía tu sĩ, họ cũng phải được đào tạo thích đáng về thần học Giáo Hội phương (74).
Tuy nhiên, trên hết, một cộng đoàn tu trì thực sự sống huynh đệ cảm thấy có trách nhiệm làm lan toả bầu khí hiệp thông, bầu khí làm cho toàn thể cộng đoàn Ki-tô hữu trở thành ”gia đình con cái của Thiên Chúa”.
61. Giáo xứ
Trong các giáo xứ, đôi khi có thể có khó khăn trong việc hoà hợp đời sống giáo xứ và đời sống cộng đoàn. Trong một vài vùng, những khó khăn sống cộng đoàn đang khi hoạt động mục vụ tại giáo xứ đã gây ra những căng thẳng đáng kể đối với các linh mục - tu sĩ. Thỉnh thoảng, những ràng buộc nặng nề của công việc mục vụ trong giáo xứ đã làm phương hại đến đoàn sủng của hội dòng và đời sống cộng đoàn đến nỗi các vị quản xứ, hàng giáo sĩ triều và ngay cả chính các tu sĩ cũng không nhận rõ được bản chất riêng biệt của đời tu.
Những nhu cầu mục vụ khẩn thiết không bao giờ được làm cho chúng ta quên rằng sự phục vụ tốt nhất mà một cộng đoàn tu trì có thể đem lại cho Giáo Hội là trung thành với đoàn sủng của mình. Điều này cũng được phản ánh trong việc lãnh nhận trách nhiệm điều hành các giáo xứ. Phải dành ưu tiên cho những giáo xứ giúp cộng đoàn sống như là một cộng đoàn, và ở đó các tu sĩ có thể biểu lộ đoàn sủng của mình.
Các cộng đoàn nữ tu cũng gặp phải những khó khăn tương tự, khi thường xuyên được yêu cầu dấn thân trực tiếp hơn cho công việc mục vụ của giáo xứ.
Ở đây cũng cần nhắc lại rằng, cộng đoàn càng hiện diện theo đoàn sủng của mình thì sự hiện diện của cộng đoàn càng đem lại nhiều hoa trái (75). Tất cả những điều này có thể là lợi điểm lớn lao cho cả cộng đoàn tu trì lẫn công việc mục vụ là công việc mà các nữ tu thường được đón nhận nồng hậu và được đánh giá cao.
62. Các phong trào Giáo Hội
Các phong trào Giáo Hội, hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này, với tinh thần sống động và sinh lực tông đồ, đã thu hút sự chú tâm của một số tu sĩ dấn thân trong các phong trào đó, đôi khi rút ra được kết quả là sự canh tân tinh thần, sự cống hiến cho việc tông đồ, và tái thức tỉnh ơn gọi của họ. Tuy nhiên, một đôi khi sự dấn thân như thế cũng gây ra những phân rẽ trong cộng đoàn tu trì.
Do đó cần để ý tới những nhận xét sau đây:
a/. Một vài phong trào chỉ là những phong trào canh tân, những phong trào khác lại có những dự phóng tông đồ có thể không tương hợp với dự phóng của cộng đoàn.
Cũng thế, về phía những người tận hiến, có những mức độ dấn thân khác nhau: một vài người tham dự với tư cách là khán giả ; những người khác thỉnh thoảng tham dự ; còn những người khác nữa là thành viên thường trực trong khi vẫn giữ sự hoà hợp hoàn toàn với cộng đoàn và linh đạo của mình. Tuy nhiên, việc các thành viên chủ chốt đang hoạt động trong đoàn thể và việc những người sống xa cách hội dòng của mình về phương diện tâm lý, lại trở thành vấn đề. Họ sống trong tình trạng bị phân tâm: cư ngụ trong cộng đoàn, nhưng sống theo những chương trình mục vụ và theo những nguyên tắc của phong trào.
Do đó cần phải cẩn thận phân biệt phong trào này với phong trào khác, và phân biệt những hình thức dấn thân khác nhau về phía cá nhân người tu sĩ.
b/. Các phong trào này có thể là một thách đố hữu ích đối với cộng đoàn tu sĩ, với năng động lực thiêng liêng của cộng đoàn, phẩm chất đời sống cầu nguyện của cộng đoàn, sự tương hợp trong các sáng kiến tông đồ của cộng đoàn, sự trung tín với Giáo Hội, cường độ của đời sống huynh đệ. Một cộng đoàn tu trì nên cởi mở để gặp gỡ các phong trào này, bằng cách tỏ ra thái độ hiểu biết, đối thoại và trao đổi ân điển với nhau.
Một truyền thống thiêng liêng lớn lao, truyền thống khổ hạnh và thần bí của đời sống tu trì và của các hội dòng cũng có thể có ích cho những phong trào trẻ trung này.
c/. Khó khăn chính đối với các phong trào này là căn tính của cá nhân những người tận hiến: nếu căn tính này vững chắc thì mối tương quan có thể đem lại thành công cho cả đôi bên.
Đối với những tu sĩ có vẻ như sống trong và cho phong trào nhiều hơn là trong và cho cộng đoàn tu trì của mình, thì nên nhớ lại khẳng định trong ”Những chỉ dẫn về việc huấn luyện trong các hội dòng”: ”Một hội dòng có những mối liên kết nội tại do bản chất, mục đích, tinh thần, đặc tính và truyền thống của mình. Toàn bộ di sản này là trục duy trì sự hiệp nhất của chính hội dòng lẫn sự hiệp nhất đời sống của mỗi phần tử. Đây là hồng ân Thánh Thần ban cho Giáo Hội, và không chấp nhận bất kỳ sự can thiệp hay một sự pha trộn nào. Đối thoại và chia sẻ trong Giáo Hội giả thiết rằng mỗi hội dòng phải ý thức rõ bản chất của mình.
“Các ứng viên bước vào đời sống tu trì... tự đặt mình... dưới thẩm quyền của bề trên hội dòng. Họ không thể đồng thời phụ thuộc vào một người nào khác ngoài hội dòng.
“Những đòi hỏi này vẫn còn sau khi tu sĩ đã tuyên khấn, để sự trung thành khỏi bị phân rẽ vừa ở phương diện đời sống thiêng liêng của cá nhân lẫn ở phương diện sứ vụ của họ” (76).
Tham gia một phong trào có thể có lợi ích tích cực cho tu sĩ nếu việc tham gia đó giúp tăng cường chân tính riêng biệt của họ.
Một vài trường hợp đặc biệt
63. Hoà mình với người nghèo
Vì đồng hành với nhiều anh chị em khác trong đức tin, các cộng đoàn tu trì ở trong số những người đầu tiên quan tâm đến sự khó nghèo vật chất và tinh thần của thời đại mình, theo những cách thức thường xuyên được canh tân.
Trong những năm gần đây, sự khó nghèo là một vấn đề đã thu hút hết tâm trí của các tu sĩ và tác động đến tâm hồn họ. Đời sống tu trì đã thật sự đối diện với vấn đề làm thế nào để công việc truyền bá Phúc Âm cho người nghèo (evangelizare pauperibus) được hữu hiệu. Nhưng người tu sĩ cũng muốn được Phúc Âm hoá nhờ tiếp xúc với thế giới người nghèo (evangelizari a pauperibus).
Trong cuộc động viên to lớn này, các tu sĩ đã chọn làm chương trình cho mình: ”Mọi người vì người nghèo”, ”đa số sống với người nghèo”, ”nên giống người nghèo” ; một vài thành tựu trong lĩnh vực ”nên giống người nghèo” đáng được quan tâm đặc biệt.
Đứng trước cái nghèo của đa số quần chúng, đặc biệt trong những khu vực bị bỏ rơi hoặc bị loại ra bên lề nơi những thành phố lớn, và trong những vùng quê bị lãng quên, ”sự hoà mình của các cộng đoàn tu trì” nổi bật như một trong những cách diễn tả sự chọn lựa ưu tiên và lựa chọn Tin Mừng liên đới với người nghèo. Các cộng đoàn này muốn đồng hành với người nghèo trong tiến trình giải phóng toàn diện, nhưng đó cũng là thành quả của ước vọng muốn khám phá Đức Ki-tô nghèo khổ trong những anh chị em sống bên lề, để phục vụ Người và trở nên đồng hình dạng với Người.
a/. ”Hoà mình”, xét như lý tưởng của đời sống tu trì, đã phát triển trong bối cảnh đức tin và tình liên đới thúc đẩy các cộng đoàn tu trì đến với những người nghèo nhất.
Đó là một thực tại không thể không khơi dậy lòng ngưỡng mộ đối với sự tận tuỵ bản thân và những hy sinh to lớn ; khơi dậy lòng yêu thương người nghèo ; khơi dậy lòng yêu thương khiến người ta chia sẻ cái nghèo thực sự khắc nghiệt của họ ; khơi dậy nỗ lực làm cho Tin Mừng hiện diện trong những khu vực dân cư không còn hy vọng, mang Lời Thiên Chúa đến gần họ hơn, và làm cho họ cảm nhận được họ là thành phần sống động của Giáo Hội (77). Những cộng đoàn này thường sống trong những vùng ghi đậm dấu ấn bạo lực gây ra bất ổn, và đôi khi bị ngược đãi đến mức đời sống thật sự bị nguy hiểm. Lòng can đảm lớn lao của họ là bằng chứng rõ ràng cho niềm hy vọng mọi người có thể sống với nhau như anh chị em, bất chấp mọi tình huống đau khổ và bất công.
Thường được gởi tới những lãnh vực sứ vụ biên cương, đôi khi là chứng tá cho tính sáng tạo tông đồ của vị sáng lập, các cộng đoàn như thế phải cố gắng tin tưởng vào thiện chí và lời cầu nguyện huynh đệ của các phần tử trong hội dòng của họ và vào sự quan tâm đặc biệt của các bề trên (78).
b/. Không nên bỏ mặc các cộng đoàn tu trì này một mình. Họ cần được giúp đỡ để sống đời sống cộng đoàn. Điều này đòi hỏi phải có những khoảng khắc dành cho việc cầu nguyện và có những trao đổi huynh đệ, nhằm bảo đảm rằng tính độc đáo trong đoàn sủng của hội dòng không có vẻ tương đối ít quan trọng hơn công việc phục vụ người nghèo đồng đều, và để chứng tá Phúc Âm của họ không bị che khuất bởi những giải thích và sự lợi dụng của người trong nhóm (79).
Các bề trên nên thận trọng trong việc tuyển chọn các phần tử thích hợp và chuẩn bị các cộng đoàn như thế làm sao để bảo đảm sự liên kết với các cộng đoàn khác trong hội dòng, nhờ đó giữ được tính liên tục. c. Chúng ta cũng nên tán thưởng những cố gắng của các cộng đoàn tu trì khác đang dấn thân hữu hiệu cho người nghèo, dù là theo những đường lối truyền thống, hay những đường lối mới phù hợp hơn với những hình thức khó nghèo mới, hoặc bằng cách khơi dậy ý thức (về vấn đề người nghèo) nơi mọi cấp bậc xã hội - như vậy là làm phát sinh sự dấn thân hoạt động xã hội và chính trị, những dự án bác ái và việc phục vụ tự nguyện giữa các ơn gọi giáo dân.
Tất cả các điều đó chứng tỏ rằng đức tin đang sống động trong Giáo Hội, tình yêu của Đức Ki-tô đang hoạt động và hiện diện giữa những người nghèo: ”Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (x. Mt 25,40).
Ở đâu sự hoà mình giữa người nghèo đã trở nên một kinh nghiệm về Thiên Chúa cho cả người nghèo lẫn cộng đoàn tu trì, thì nơi đó thực sự có kinh nghiệm để khẳng định rằng người nghèo được rao giảng Phúc Âm và người nghèo rao giảng Phúc Âm.
64. Các cộng đoàn nhỏ
a/. Các nhân tố xã hội khác cũng ảnh hưởng đến các cộng đoàn. Trong một vài vùng phát triển về kinh tế, Chính quyền tỏ ra tích cực hơn trong một số lãnh vực như giáo dục, sức khoẻ và các dịch vụ xã hội, thường để lại rất ít hoặc không để lại chỗ trống nào cho các tác nhân khác, như các cộng đoàn tu trì chẳng hạn. Mặt khác, vì sự giảm sút về số lượng các nam nữ tu sĩ, và ở nơi này hay nơi khác, một hiểu biết giới hạn về sự hiện diện của người Công Giáo trong các hoạt động xã hội, được coi là có tính cách bổ túc hơn là một biểu hiện đích thực của tinh thần bác ái Ki-tô giáo, đã gây khó khăn cho việc thực hiện các dự phóng phức tạp.
Vì vậy, trong một vài miền, người ta đã dần dần bỏ các hoạt động truyền thống - trong nhiều năm vẫn do các cộng đoàn vững mạnh và đồng nhất đảm nhận - và nơi các cộng đoàn nhỏ lại gia tăng những loại dịch vụ mới, thường không phù hợp với đoàn sủng của hội dòng.
b/. Những cộng đoàn nhỏ hơn cũng đã thường trở nên như là kết quả của việc một số hội dòng chọn lựa kỹ lưỡng nhằm cổ võ sự hiệp nhất và cộng tác huynh đệ qua những mối liên hệ gần gũi hơn giữa các cá nhân, qua việc chia sẻ trách nhiệm hỗ tương và dựa trên căn bản rộng rãi hơn.
Những cộng đoàn như thế, đã được nói đến trong tông huấn Chứng tá Phúc Âm (80) chắc chắn là có thể hiện hữu, mặc dù tỏ ra đòi hỏi các phần tử nhiều hơn.
c/. Những cộng đoàn nhỏ, thường tiếp xúc gần gũi với cuộc sống và các vấn đề hằng ngày của con người, nhưng cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi não trạng thế tục, có trách nhiệm quan trọng là phải trở nên những nơi chốn hữu hình của một tình huynh đệ hạnh phúc, của sự cần cù quảng đại và của niềm hy vọng siêu việt.
Vì vậy các cộng đoàn này cần phải có một chương trình sống vững vàng, linh động và chặt chẽ, và phải được giới chức trách có thẩm quyền chấp thuận để việc tông đồ mang tính cộng đoàn. Chương trình này phải phù hợp với các cá nhân cũng như những nhu cầu của sứ vụ, bằng cách phát triển hài hoà việc cầu nguyện và hoạt động, những lúc gần gũi thân mật trong cộng đoàn và lúc hoạt động tông đồ. Chương trình đó cũng nên bao gồm cả những cuộc gặp gỡ định kỳ với các cộng đoàn khác trong cùng một hội dòng. Mục đích chính là nhằm vượt qua nguy cơ bị cô lập và tách rời khỏi cộng đoàn lớn hơn của hội dòng.
d/. Cho dù các cộng đoàn nhỏ có thể đem lại những cơ hội thuận lợi, thì bình thường cũng không nên khuyến khích thiết lập một hội dòng chỉ gồm những cộng đoàn nhỏ. Rất cần có những cộng đoàn lớn hơn. Những cộng đoàn này có thể cung cấp những trợ giúp đầy ý nghĩa cho toàn hội dòng lẫn các cộng đoàn nhỏ hơn, nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện và các việc cử hành nghi lễ sốt sắng và phong phú hơn ; là nơi thích hợp để nghiên cứu và suy tư ; là nơi tĩnh tâm và nghỉ ngơi cho các thành viên đang hoạt động trên những biên cương đầy khó khăn của sứ vụ rao giảng Phúc Âm.
Bầu khí thân ái và chấp nhận lẫn nhau sẽ đem lại nhiều kết quả do việc hỗ tương qua lại giữa hai hình thức cộng đoàn trên.
Người ta nhận biết những cộng đoàn đó trước tiên qua tình yêu thương huynh đệ liên kết các phần tử, qua cuộc sống giản dị của họ, qua sứ vụ mà họ đảm trách với danh nghĩa cộng đoàn, qua việc trung thành kiên trì với đoàn sủng của họ, qua việc không ngừng truyền thông ”hương vị ngọt ngào” của Đức Ki-tô (2 Cr 2,15), để trong những hoàn cảnh bất thường nhất, họ vẫn có thể bày tỏ ”con đường bình an”, thậm chí ngay cả cho những thành phần bị hoang mang và phân tán của xã hội tân tiến.
65. Các tu sĩ nam nữ sống một mình
Một trong những thực tại đôi khi chúng ta gặp phải là tình trạng các tu sĩ nam hoặc nữ sống một mình. Đời sống chung trong một nhà của hội dòng là lối sống chính yếu của đời tu. ”Các tu sĩ phải sống trong nhà dòng của mình, tuân thủ nếp sống chung. Họ không nên sống một mình nếu không có lý do hệ trọng, và không nên sống như vậy nếu có một cộng đoàn của hội dòng ở gần đấy” (81).
Tuy nhiên, có những ngoại lệ cần được các bề trên lượng định và cho phép (82) vì lý do tông đồ nhân danh hội dòng, (chẳng hạn như những công việc do Giáo Hội yêu cầu ; những sứ vụ khác thường ; những vùng xa xôi trong miền truyền giáo ; sự giảm sút dần dần các thành viên của cộng đoàn, đến nỗi chỉ có một tu sĩ duy nhất phụ trách một trong những công việc của hội dòng), hoặc vì lý do sức khoẻ và học hành.
Trong khi trách nhiệm của các bề trên là phải củng cố liên lạc thường xuyên với các thành viên sống ngoài cộng đoàn, thì bổn phận của các tu sĩ này là phải luôn ý thức rằng mình thuộc về hội dòng và hiệp thông với các phần tử của hội dòng, và tìm mọi phương thế thích hợp để củng cố mối dây huynh đệ. Phải hoạch định những thời kỳ sống huynh đệ thắm thiết, cũng như những cuộc gặp gỡ thường xuyên với các tu sĩ bạn nhằm đào tạo, chia sẻ huynh đệ, duyệt lại đời sống, và cầu nguyện, để hít thở bầu khí gia đình. Dù ở đâu đi nữa, các phần tử của hội dòng cũng là những người mang đoàn sủng của gia đình tu trì của họ.
Tu sĩ sống một mình không bao giờ là điều lý tưởng. Nguyên tắc là tu sĩ phải sống trong những cộng đoàn huynh đệ: mỗi cá nhân được thánh hiến trong đời sống chung này, và chính trong lối sống này mà các tu sĩ nam nữ đảm nhận tác vụ tông đồ của họ một cách bình thường ; họ phải trở về đời sống này, cả tâm hồn lẫn con người, trong khi vì cần thiết, họ phải sống cách biệt một thời gian dài hoặc ngắn.
a/. Những đòi hỏi của công việc tông đồ đặc biệt, chẳng hạn như công việc của giáo phận, đã khiến nhiều hội dòng khác nhau phải gởi một trong những phần tử của mình cộng tác trong đội ngũ liên hội dòng. Có những kinh nghiệm tích cực trong đó các tu sĩ cộng tác trong việc phục vụ một công việc đặc biệt ở nơi không có cộng đoàn của hội dòng mình, thay vì sống một mình, họ lại sống chung một nhà, cầu nguyện chung với nhau, họp nhau để suy niệm Lời Chúa, chia sẻ lương thực và những công việc trong nhà, v.v... Bao lâu điều này không thay thế việc sống hiệp thông với hội dòng riêng của họ, thì ”đời sống cộng đoàn” loại này có thể thuận lợi cho công việc và cho chính các tu sĩ.
Tu sĩ nên cẩn thận khi muốn đảm nhận một công việc mà bình thường đòi hỏi họ phải sống ngoài cộng đoàn, và các bề trên cũng nên khôn ngoan trong việc chỉ định các phần tử vào những công việc này.
b/. Những đòi hỏi phải chăm sóc cha mẹ già yếu bệnh tật thường kéo theo sự vắng mặt lâu dài khỏi cộng đoàn, cũng cần phân định cẩn thận, và có thể đáp ứng những nhu cầu như thế bằng những cách sắp xếp khác để con cái không phải vắng mặt lâu quá.
c/. Cần lưu ý rằng, các tu sĩ sống một mình, không có sự bổ nhiệm hay phép của bề trên, là đang trốn tránh bổn phận sống chung. Tham dự một vài cuộc hội họp hay nghi lễ chưa đủ để là một tu sĩ trọn vẹn. Phải nỗ lực dẹp bỏ dần dần những hoàn cảnh không chính đáng và không thể chấp nhận được như thế đối với các tu sĩ nam nữ.
d/. Trong mỗi trường hợp, nên nhắc lại rằng, ngay cả khi sống ngoài cộng đoàn, tu sĩ vẫn thuộc quyền của giám mục trong lãnh vực hoạt động tông đồ (83), giám mục phải được thông báo về sự hiện diện của tu sĩ trong giáo phận của mình.
đ/. Nếu chẳng may có những hội dòng mà đa số các thành viên không còn sống trong cộng đoàn nữa, thì các hội dòng đó không còn được coi là dòng tu thực sự. Các bề trên và các tu sĩ được mời đặc biệt suy tư về hậu quả đáng buồn này, và từ đó suy nghĩ về tầm quan trọng trong việc mạnh mẽ phục hồi việc thực hành đời sống chung huynh đệ.
66. Các miền truyền giáo
Đời sống chung huynh đệ có giá trị đặc biệt trong những miền truyền giáo (ad gentes), vì tỏ ra cho thế giới, nhất là thế giới ngoài Ki-tô giáo, thấy ”tính chất mới mẻ” của Ki-tô giáo, đó là, đức ái có khả năng thắng vượt mọi phân rẽ do chủng tộc, màu da và thị tộc. Nơi những quốc gia không thể rao giảng Tin Mừng được, thì các cộng đoàn tu sĩ gần như là dấu hiệu duy nhất, là chứng tá thầm lặng và hữu hiệu của Đức Ki-tô và của Giáo Hội.
Nhưng nhiều khi rõ ràng chính trong các khu vực truyền giáo mà các tu sĩ phải đương đầu với những khó khăn thực tế đáng lưu tâm trong việc xây dựng những cộng đoàn vững chắc và khả thị: những khoảng cách không gian đòi hỏi phải có những cộng đoàn đầy năng động và rải rác trong một phạm vi rộng ; việc thuộc về những chủng tộc, thị tộc, nền văn hoá khác nhau ; nhu cầu cho việc đào tạo trong những trung tâm liên dòng. Những điều này và những nhân tố khác có thể gây trở ngại cho một cộng đoàn lý tưởng.
Điều quan trọng là các phần tử của hội dòng ý thức được tính cách khác thường của hoàn cảnh, cổ võ thông tin cho nhau thường xuyên, thúc đẩy những cuộc gặp gỡ chung đều đặn, và xây dựng những cộng đoàn huynh đệ có đặc tính truyền giáo mạnh mẽ càng sớm càng tốt, nhờ đó các cộng đoàn có thể là dấu chỉ truyền giáo tuyệt hảo: ”Xin cho tất cả nên một..., để thế gian tin” (Ga 17,21).
67. Tổ chức lại công việc
Những thay đổi trong các điều kiện văn hoá và trong Giáo Hội, những nhân tố nội tại trong việc phát triển các hội dòng và những thay đổi về nguồn lực của các hội dòng có thể đòi phải tổ chức lại công việc và sự hiện diện của các cộng đoàn tu trì.
Công việc này, một công việc không dễ, có những hệ luỵ thực sự liên quan tới cộng đoàn. Nói chung, đó là những công việc mà nhiều anh chị em đã cống hiến những năng lực tông đồ cao nhất của mình, và bị ràng buộc bởi những liên hệ tâm lý và thiêng liêng đặc biệt.
Tương lai của những công việc này, ý nghĩa tông đồ và việc tổ chức lại những công việc đó đòi hỏi phải nghiên cứu, so sánh và phân định. Tất cả những chuyện này có thể trở thành một mái trường để học tìm kiếm và tuân theo ý muốn của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng có thể là một dịp gây ra những xung đột đau đớn không dễ dàng vượt qua.
Những tiêu chuẩn không thể bỏ qua và chúng soi sáng cộng đoàn khi cần quyết định, đôi khi phải can đảm và đau đớn, là: tận tâm bảo vệ ý nghĩa của đoàn sủng riêng trong một bối cảnh riêng biệt, quan tâm duy trì một đời sống huynh đệ thực sự, và chú trọng tới những nhu cầu của Giáo Hội địa phương. Vì thế, một sự đối thoại tin tưởng và liên tục với Giáo Hội địa phương quả là thiết yếu, vì là mối liên kết hữu hiệu với những người chịu trách nhiệm về sự hiệp thông giữa các tu sĩ.
Thêm vào việc chú ý đến những nhu cầu của Giáo Hội địa phương, các cộng đoàn tu trì cũng phải quan tâm đến tất cả những gì mà thế giới xao lãng - đó là những hình thức mới của cảnh khó nghèo và đau khổ dưới nhiều dạng mà chúng ta gặp thấy ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới.
Việc tổ chức lại sẽ có tính sáng tạo và là nguồn mạch của những dấu chỉ ngôn sứ nếu quan tâm loan báo những cách thức hiện diện mới - dù chỉ trong một số nhỏ - để đáp ứng những nhu cầu mới, đặc biệt là những nhu cầu của đa số các khu vực bị bỏ rơi và quên lãng.
68. Các tu sĩ cao niên
Hiện nay, một trong những tình huống mà đời sống cộng đoàn thường gặp phải nhiều, đó là sự gia tăng tuổi tác nơi các phần tử. Tuổi tác mang một ý nghĩa đặc biệt vừa vì số ơn gọi mới giảm sút, vừa vì những tiến bộ của y học. Đối với cộng đoàn, một mặt, sự kiện này có nghĩa là quan tâm đến việc chấp nhận và coi trọng sự hiện diện cũng như việc phục vụ mà các anh em cao niên đã có thể cống hiến nơi cộng đoàn, mặt khác, điều đó cũng có nghĩa là để ý đến việc cung cấp - một cách thân tình và phù hợp với đời sống thánh hiến - những trợ giúp về mặt tinh thần cũng như vật chất mà người có tuổi cần đến.
Sự hiện diện của những anh chị em lớn tuổi trong các cộng đoàn có thể rất tích cực. Một tu sĩ đã cao niên mà vẫn không để những phiền luỵ cũng như những giới hạn về tuổi tác chế ngự được mình, nhưng cứ sống vui vẻ, yêu thương và hy vọng, thì tu sĩ đó lại trở nên nguồn nâng đỡ quý giá đối với những người trẻ. Các tu sĩ cao niên mang lại một chứng tá, sự khôn ngoan và lời cầu nguyện, đó là nguồn động viên thường xuyên cho những người trẻ trong hành trình tâm linh và tông đồ của họ. Hơn nữa, người tu sĩ quan tâm đến những anh em cao niên sẽ đem lại một sự khả tín có tính cách Tin Mừng cho hội dòng của mình như là một ”gia đình đích thực được quy tụ nhân danh Thiên Chúa” (84).
Những người tận hiến cũng nên chuẩn bị một thời gian dài trước để trở nên già cả và để kéo dài những năm ”hoạt động” bằng việc học biết cách thức mới để xây dựng cộng đoàn và cộng tác vào sứ vụ chung, tích cực đáp ứng những thách đố của thời đại mình, nhờ những mối quan tâm sống động về tinh thần và văn hoá, bằng lời cầu nguyện, bằng việc tiếp tục tham gia hoạt động bao lâu còn có thể phục vụ, cho dù có bị giới hạn. Các bề trên cũng nên sắp xếp các khoá học và những cuộc gặp gỡ để giúp đỡ việc chuẩn bị cá nhân, kéo dài và tăng cường sự hiện diện của các tu sĩ trong vị trí công tác bình thường của họ càng nhiều càng tốt.
Đến khi các phần tử cao niên không còn độc lập được nữa, hoặc khi họ cần đến sự chăm sóc đặc biệt, kể cả sự chăm sóc của người giáo dân, thì hội dòng nên quan tâm nhiều đến việc nâng đỡ họ, nhờ đó họ vẫn cảm thấy mình là một phần trong đời sống của hội dòng, chia sẻ sứ vụ của hội dòng, liên đới trong năng động lực tông đồ của hội dòng, an ủi họ trong những lúc cô độc, khích lệ họ khi họ gặp đau khổ. Họ không bao giờ từ bỏ sứ vụ, nhưng họ ở tại chính trung tâm của sứ vụ khi tham dự vào sứ vụ đó bằng một cách thức mới mẻ và hiệu quả.
Dù âm thầm, thành quả của họ không kém gì so với các cộng đoàn năng động hơn. Các cộng đoàn này nhận được sức mạnh và hoa trái nhờ lời cầu nguyện, nhờ những đau khổ và những việc xem ra có vẻ ít ảnh hưởng của các anh em cao niên. Sứ vụ cần cả hai hình thức đó, và những kết quả sẽ trở nên rõ ràng khi Chúa đến trong vinh quang cùng với các thiên thần của Người.
69. Những vấn đề nảy sinh từ việc gia tăng số tu sĩ cao niên trở nên gay cấn hơn đối với một số đan viện thiếu ơn gọi. Vì bình thường, mỗi đan viện là một cộng đoàn độc lập, nên tự mình khó có thể vượt qua được những vấn đề này. Vì thế, nên nhắc lại tầm quan trọng của những cơ cấu hiệp thông, như các liên hiệp chẳng hạn, để khắc phục những hoàn cảnh rất cần đến nhân sự.
Sự trung tín với đời sống chiêm niệm đòi hỏi các phần tử của một đan viện phải hiệp nhất với một đan viện khác trong cùng một dòng khi một cộng đoàn đan viện, vì con số các phần tử, tuổi tác hoặc thiếu ơn gọi, thấy trước sự tan rã của cộng đoàn. Cũng vậy, trong hoàn cảnh đáng buồn của những cộng đoàn không còn có thể sống theo ơn gọi riêng của mình, vì các phần tử bị kiệt sức dần do công việc hoặc phải săn sóc những anh em già cả, yếu đau, khi đó cần phải xin dòng trợ lực, hoặc phải lựa chọn liên kết hoặc sát nhập với đan viện khác (85).
70. Mối tương quan mới đối với giáo dân
Giáo Hội học của Công Đồng đã chiếu toả ánh sáng vào tính cách bổ túc của những ơn gọi khác nhau trong Giáo Hội mà chúng ta được kêu mời cùng nhau trở nên chứng tá cho Chúa Phục Sinh trong mọi hoàn cảnh và nơi chốn. Sự gặp gỡ và cộng tác giữa các tu sĩ nam nữ và tín hữu giáo dân được coi là một thí dụ về sự hiệp thông trong Giáo Hội, đồng thời củng cố các năng lực tông đồ để Phúc Âm hoá thế giới.
Sự tiếp xúc thích đáng giữa các giá trị là đặc trưng của ơn gọi giáo dân, chẳng hạn như một nhận thức cụ thể hơn về đời sống con người, văn hoá, chính trị, kinh tế, v.v..., và những giá trị là đặc trưng của đời sống tu trì, như việc theo Chúa Ki-tô cách triệt để, chiều kích chiêm niệm và cánh chung của đời sống theo Ki-tô giáo, v.v... có thể biến thành sự trao đổi các ân điển một cách hữu ích giữa người tín hữu giáo dân và các cộng đoàn tu trì.
Sự cộng tác và trao đổi các ân điển trở nên chặt chẽ hơn, khi do ơn gọi và theo cách thức riêng, các nhóm giáo dân chia sẻ đoàn sủng và sứ vụ của hội dòng tại trung tâm của cùng một gia đình thiêng liêng. Theo cách này, có thể thiết lập những mối tương quan hữu ích, dựa trên những liên hệ đồng trách nhiệm chín chắn, và được hỗ trợ bởi những chương trình được hoạch định thường xuyên để huấn luyện về linh đạo của hội dòng.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, cần phải có: những cộng đoàn tu trì với căn tính đoàn sủng rõ rệt, khi đã được tiếp tục và được sống, có khả năng chuyển trao và sẵn sàng chia sẻ cho người khác ; những cộng đoàn có một nền linh đạo mạnh mẽ và nhiệt tình truyền giáo để thông truyền cùng một tinh thần và cùng một lực đẩy để Phúc Âm hoá ; những cộng đoàn tu trì biết cách cổ vũ và khích lệ người giáo dân chia sẻ đoàn sủng của hội dòng, theo đặc tính trần thế của họ và theo lối sống khác biệt của họ, mời gọi họ khám phá những phương thức mới để thực thi cùng một đoàn sủng và cùng một sứ vụ. Như vậy, một cộng đoàn tu trì trở thành trung tâm chiếu toả, một sức mạnh thiêng liêng, một trung tâm của nhiệt tình, của tình huynh đệ phát sinh tình huynh đệ, và của sự hiệp thông và cộng tác trong Giáo Hội, nơi đó những đóng góp khác nhau của mỗi người giúp xây dựng Thân Thể Đức Ki-tô, tức là Giáo Hội.
Dĩ nhiên, sự cộng tác chặt chẽ phải được thực hiện với lòng kính trọng ơn gọi của nhau, và những lối sống khác biệt phù hợp với người tu trì và phù hợp với người giáo dân.
Một cộng đoàn tu trì có những nhu cầu riêng của mình về hứng khởi, thời biểu, kỷ luật và sự cách biệt (86), nên không thể chấp nhận được những hình thức cộng tác bao hàm việc đồng cư và sống chung giữa tu sĩ và giáo dân, kể cả khi những sắp xếp như thế có định rõ những điều kiện cần phải được tôn trọng.
Nếu không, một cộng đoàn tu trì sẽ đánh mất đặc điểm riêng của mình mà cộng đoàn có trách nhiệm phải duy trì bằng cách tuân giữ đời sống chung.
KẾT LUẬN
71. Cộng đoàn tu trì, xét như là một cách biểu lộ Giáo Hội, là hoa quả của Chúa Thánh Thần, và là sự tham dự vào sự hiệp thông của Ba Ngôi. Vì thế, mọi tu sĩ đều phải cảm thấy mình đồng trách nhiệm đối với đời sống huynh đệ cộng đoàn, ngõ hầu bộc lộ việc họ thuộc về Đức Ki-tô, Đấng đã chọn và kêu gọi các anh em và chị em sống với nhau nhân danh Người.
“Hiệu quả của đời sống tu trì tuỳ thuộc vào phẩm chất của đời sống huynh đệ cộng đoàn. Hơn nữa, đặc điểm của phong trào canh tân trong Giáo Hội và trong đời tu là tìm kiếm sự hiệp thông và cộng đoàn” (87).
Đối với một vài tu sĩ và một vài cộng đoàn, công việc khởi sự tái xây dựng nếp sống huynh đệ cộng đoàn có vẻ là một chuyện chán nản, thậm chí không tưởng. Đứng trước một số vết thương trong quá khứ và những khó khăn trong hiện tại, công việc có vẻ vượt quá các khả năng của con người yếu đuối.
Vấn đề là suy tư trong đức tin về ý nghĩa thần học của đời sống huynh đệ cộng đoàn, của việc xác tín rằng chứng tá sự thánh hiến tuôn trào từ đời sống đó.
Đức Thánh Cha nói: ”Câu trả lời cho lời mời gọi cùng với Chúa kiên trì xây dựng cộng đoàn mỗi ngày diễn ra trên đường thánh giá ; câu trả lời này đòi hỏi phải bỏ mình thường xuyên” (88).
Hiệp với Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu Đức Giê-su, các cộng đoàn chúng ta kêu cầu Chúa Thánh Thần, Đấng có sức mạnh kiến tạo các cộng đoàn huynh đệ có khả năng toả chiếu niềm vui của Tin Mừng và có thể lôi cuốn những môn sinh mới, theo gương cộng đoàn tiên khởi : ”Họ chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện” (Cv 2,42), ”Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: đàn ông đàn bà đông vô kể” (Cv 5,14).
Nguyện xin Đức Ma-ri-a quy tụ các cộng đoàn tu trì và trợ giúp họ hằng ngày nhờ lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần, Đấng là dây liên kết, là men và là nguồn mạch của mọi sự hiệp thông huynh đệ.
Ngày 15 tháng 1 năm 1994, Đức Thánh Cha đã châu phê văn kiện này của Bộ các hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ, và đã ban phép công bố.